Giáo dục giới tính ở trường: Thầy cô cũng… đỏ mặt
Bố mẹ né tránh, cho rằng giáo dục giới tính là việc của nhà trường. Nhưng thực tế hiện nay ở trường học, việc giáo dục giới tính chưa được thực hiện đến nơi đến chốn nên học trò đang phải tiếp cận kiến thức một cách “nửa vời”.
Học trò hỏi, cô cũng ngượng
Cô Nguyễn Thị Bình, tổ trưởng tổ bộ môn Sinh học, Kỹ thuật tại một trường THCS ở TPHCM cho hay việc dạy kiến thức giới tính cho học sinh (HS) hiện nay chủ yếu vẫn do giáo viên (GV) môn Sinh phụ trách. Không ít GV, nhất là các thầy cô giáo trẻ cứ đến phần dạy về các bộ phận nhạy cảm trên cơ thể, giao hợp là… đỏ mặt, ngượng ngùng nên thường chỉ dạy qua loa hoặc để HS tự tìm hiểu.
“Tuy có kiến thức nhưng với thầy cô, nhất là những người chưa lập gia đình, việc trình bày vấn đề mà từ lâu chúng ta đã quan niệm là “tế nhị” này với các em HS là điều không dễ dàng. Nhất là việc diễn đạt, lý giả một cách cụ thể, rõ ràng… thì nhiều thầy cô không làm được. HS thì cười rúc rích, có em còn hỏi tới làm thầy cô càng ngượng”, cô Bình cho hay.
Thầy và trò đều chưa thật sự tự nhiên, thoải mái trong những giờ học về sức khỏe giới tính, sinh sản. Trong ảnh: Học sinh Trường THPT Lê Quý Đôn, TPHCM trong giờ học GDGT ngoại khóa.
Nội dung giáo dục sức khỏe sinh sản, giới tính hiện nay đã được thông qua giảng dạy lồng ghép trong các môn giáo dục thể chất và y tế trường học. Tuy nhiên, tại các trường trách nhiệm chủ yếu vẫn đang được “đùn đẩy” hết cho GV môn Sinh vì tâm lý ngại ngùng, cho là đó là chuyện tế nhị của cả thầy và trò. Nhiều GV thừa nhận, đề cập đến vấn đề này làm họ lúng túng chứ không tự tin để trao đổi với các em.
Ở bậc tiểu học, các em được làm quen với GDGT từ lớp 5 qua các bài như cơ thể người, về trứng, tinh trùng, về bào thai… Nhưng do cách dạy “né tránh” của GV nên các em không những không có thêm kiến thức mà còn trở nên hoang mang, rối bời.
Có rất nhiều HS nữ bậc tiểu học dậy thì sớm, có kinh nguyệt nhưng hoảng sợ, không biết nguyên nhân vì sao mình chảy máu. Đã có những tình huống HS lớp 4, lớp 5 được học cơ chế thụ thai là do tinh trùng của nam gặp trứng của thì sợ hãi không dám tiếp xúc, vui đùa với bạn trai vì sợ… có bầu do các em không được giải thích đến nơi đến chốn.
“Tôi đã từng gặp tình huống cô HS lớp 5 đã rất mạnh dạn hỏi cô giáo “Làm sao tinh trùng gặp được trứng?”. HS đã dám hỏi, lẽ ra GV phải tận dụng thời cơ đó để giải thích cho HS thì cô bảo rằng em về hỏi mẹ. Khổ nỗi, khi em về hỏi mẹ lại bị la vì hỏi vớ vẩn và bảo con đến hỏi cô, cô rành hơn”, một chuyên gia tâm lý ở TPHCM kể. Bà đánh giá rằng rằng nhà trường và gia đình đang đùn đẩy việc GDGT cho nhau vì lý đó là “chuyện khó nói”.
Cần thực hiện đến nơi đến chốn
Em Nguyễn Thị Hồng Vân, HS Trường THPT Phạm Văn Sáng (huyện Hóc Môn, TPHCM) cho hay HS bây giờ phải đối diện với nhiều thay đổi nhanh về cơ thể, tâm sinh lý và nhiều cạm bẫy trong cuộc sống. Việc được GDGT là rất cần thiết nhưng thực tế ở trường học những kiến thức này vẫn chỉ được thực hiện một cách qua loa, đại khái nên HS rất bối rối, nghe được cái gì là “bám” vào ngay.
Video đang HOT
Nhiều HS cũng chia sẻ, cũng có những thầy cô có thể thoải mái khi nói các vấn đề liên quan đến sức khoẻ giới tính, sinh sản nhưng phần lớn họ rất e ngại. “HS chúng em thường tiếp cận thông tin về các vấn đề này qua các tờ rơi, qua mạng và qua bạn bè nên thường không kiểm chứng được đúng hay không”, em Nguyễn Văn Toản, HS cấp 2 ở Q.8 bày tỏ.
Nhiều GV còn e ngại trong việc GDGT cho HS. Trong ảnh: GV tại TPHCM tham gia tập huấn giáo dục về kiến thức sinh sản, kế hoạch hóa gia đình cho HS.
BS Đặng Phi Yến (Phòng Truyền thông Dân số kế hoạch hoá gia đình TPHCM) đánh giá, hiện nay việc học trò dậy thì sớm rất phổ biến, có em 9 – 10 tuổi đã có kinh nguyệt, nghĩa là sẽ có khả năng mang thai nếu có quan hệ tình dục. Thế nên việc GDGT, sức khoẻ sinh sản cần được thực hiện sớm ở trường học để các em biết vệ sinh đúng cách, biết bảo vệ mình.
“Ở nhiều nước, trẻ ở tuổi dậy thì khi đi picnic, cắm trại… còn được bố mẹ nhét theo bao cao su. Còn chúng ta lại luôn tìm cách né tráng, có trường còn từ chối khi nghe chúng tôi tổ chức giới thiệu về bao cao su cho HS. Trong khi thực trạng nữ sinh phá thai đang rất đáng báo động, tương lai của các em phải đối diện với rất nhiều nguy cơ đau lòng”, ông Yến cho hay.
Bà Nguyễn Trần Diễm Linh, hiệu trưởng Trường tiểu học Lê Ngọc Hân (Q.1) cho rằng việc dạy giới tính cho trẻ cần chú ý đến phương thức và thái độ. Vì HS bây giờ biết nhiều và đoán được nhiều hơn mình nghĩ. GV đứng lớp mà thẹn thùng thì sẽ luống cuống, không hiệu quả.
Nói về sự lúng túng của GV đối với việc GDGT, một chuyên gia từ Trường ĐH Y dược TPHCM cho hay điều này không có gì lạ vì bởi việc né tránh nói chuyện “người lớn” đã tồn tại từ bao đời nay. Không phải GV nào cũng được học về các kiến thức này và cách truyền đạt về GDGT cho HS nên họ gặp khó khăn điều cần thông cảm. GV còn áp lực về dạy kiến thức chuyên môn nên họ không còn thời gian để quan tâm đến chuyện được xem là “bên lề” của HS.
Chưa kể, việc GDGT hiện nay vẫn còn được thực hiện theo kiểu “lắp ghép”, chúng ta chưa có một chương trình mang tính hệ thống có sự kết hợp của gia đình, nhà trường, xã hội… Nhiều chuyên gia cho rằng việc GDGT cần phải thực hiện càng sớm càng tốt nhưng cũng cảnh báo nếu thực hiện không đến nơi đến chốn, dạy nửa vời thì việc được GDGT có khi lại nguy hiểm hơn cả việc không dạy.
Theo dân trí
Hậu quả khi học trò yêu liều
Yêu liều nhưng không được trang bị các kiến thức về sức khỏe giới tính, sức khỏe sinh sản nên học trò dễ gánh hậu quả từ việc quan hệ tình dục sớm. Và cũng vì thiếu kiến thức, các em giải quyết "hậu quả" đó cũng rất dễ dàng...
Nữ sinh làm mẹ bất đắc dĩ
Liên tục gần đây, có nhiều cuộc gọi đến một trung tâm tư vấn tâm lý cộng đồng ở TPHCM xuất phát từ những thân chủ là các em nữ sinh đang học trung học hay đại học đang rơi vào tình thế... làm mẹ bất đắc dĩ.
Có em mất kinh nguyệt hai tháng, có em đến tháng thứ 6, thứ 7 mới biết mình mang bầu. Đó có thể là kết quả của những mối tình vụng dại, vội vàng hay có những đôi yêu nhau sâu đậm nhưng có điểm chung là liều lĩnh dâng hiến, thiếu kỹ năng bảo vệ cho dù chưa ai sẵn sàng làm bố làm mẹ.
Tìm đến trung tâm tư vấn nhưng hầu hết điều các em cần không phải là sự chia sẻ, phân tích hay hỗ trợ từ các chuyên gia mà các em muốn được "chỉ đường" để tìm chỗ bỏ thai kín đáo chứ rất ít trường hợp cân nhắc bây giờ nên làm thế nào thế nào thì tốt nhất.
Một ca tư vấn tại một phòng khám "chui". (Ảnh: P.Thanh).
Bà Vũ Cẩm Vân, chuyên viên tâm lý Hội quán Các bà mẹ cho hay gần đây bà tiếp rất nhiều cuộc gọi của các bạn nữ, các em học sinh còn đi học nhờ tư vấn nơi... phá thai kín đáo. Khi biết mình có bầu, phần lớn các em chỉ mong tìm một nơi giải quyết thật nhanh, thật kín để không ai hay biết. Rất hiếm trường hợp cân nhắc giữ hay để và cũng ít người nghĩ đến hậu quả việc phá thai.
Chính vì thế, việc tiếp cận, tư vấn cho các em không dễ dàng, đôi khi chính các chuyên viên tâm lý phải đầu hàng. "Tôi rơi nước mắt khi một nữ sinh đang học lớp 12 gọi điện đến để tìm chỗ... phá thai nhưng sau khi trò chuyện, em quyết tâm giữ lại. Em vẫn còn đủ thời gian để thi tốt nghiệp, thi đại học rồi sẽ tạm nghỉ sinh con. Rồi tôi không khỏi băn khoăn con đường trước mắt của em sẽ thế nào khi làm mẹ ở độ tuổi này ", bà Vân chia sẻ.
BS Đặng Phi Yến (chuyên viên Sở Y tế TPHCM) cho hay, trong 95.067 ca phá thai năm 2011 ở TPHCM thì có đến 3.867 trường hợp tuổi vị thành niên, chiếm 4,1%. So với năm 2010, tỉ lệ này là 2,29% trong 89.009 ca phá thai.
Tại nhiều buổi tập huấn về sức khoẻ sinh sản vị thành niên, nhiều y tá, bác sĩ khoa sản chia sẻ không ít học trò đến bệnh viện bỏ thai một cách rất hồn nhiên, chỉ mong được giải quyết nhanh để kịp giờ học, giờ thi. Có em vì bỏ thai sau đó bị băng huyết, có em đang học phổ thông đã bỏ thai 2 - 3 lần...
Tại hội thảo toàn quốc về tình dục và sức khỏe sinh sản do Trường ĐH Y tế Công cộng tổ chức cuối năm 2012, kết quả thăm khám lâm sáng thực tế và khảo sát trên các trẻ vị thành niên có thai ngoài ý muốn tại Bệnh viện Phụ sản Hùng Vương, Bệnh viện Từ Dũ và Trung tâm Sức khỏe sinh sản TPHCM do BS Nguyễn Duy Tài - trưởng bộ môn phụ sản (Trường ĐH Y dược TPHCM) cung cấp làm không ít người phải bàng hoàng về độ tuổi quan hệ tình dục của giới trẻ.
Có nhiều trường hợp các quan hệ tình dục tự nguyện từ 10 - 12 tuổi. Khảo sát cũng cho thấy, tuổi quan hệ tình dục lần đầu của các em là 14 tuổi, sớm hơn rất nhiều so với điều tra quốc gia (theo nghiên cứu quốc gia về vị thành niên và thanh niên lần 1 công bố năm 2005 cho thấy tuổi cho thấy tuổi quan hệ tình dục lần đầu ở nam nữ thanh niên Việt Nam là hơn 19 tuổi, đến điều tra lần 2 (công bố năm 2010), độ tuổi này hạ xuống còn 18.
Lỗi của người đi trước?
Nhiều chuyên gia cho rằng, ảnh hưởng từ văn hoá bên ngoài, giới trẻ ồ ạt chạy theo cách sống của phương Tây, các em xem quan hệ tình dục là điều bình thường. Trong khi kiến thức về sức khoẻ giới tính, sức khoẻ sinh sản và các kỹ năng bảo vệ mình lại vô cùng yếu kém nên việc "lãnh hậu quả" là điều khó tránh.
Đây cũng là kết quả của việc các em bị "che chắn" về kiến thức giới tính, sức khoẻ sinh sản. Nhiều người vẫn quan niệm rằng, đó là chuyện nhạy cảm không thể đưa ra để trao đổi, dạy dỗ và giáo dục giới tính đồng nghĩa với việc "tiếp tay" cho trẻ làm bậy.
Học sinh Trường THPT Lê Quý Đôn, TPHCM trong buổi tìm hiểu về sức khoẻ giới tính, sinh sản. (Ảnh: Hoài Nam).
ThS, BS Đỗ Quang Minh, ĐH Y dược TPHCM cho hay, việc quan hệ tình dục với học trò phổ thông, sinh viên đại học hiện nay là tương đối phổ biến. Trong các chương trình tư vấn, ông nhận được những câu hỏi về chuyện "người lớn" rất thẳng, rất thật của các em chứ không né tránh, lòng vòng.
"Chúng ta không thể cấm đoán hay hạn chế việc này mà phải nhìn vào thực tế "hươu đang chạy lung tung". Các em cần hiểu rõ về mọi chuyện để có lựa chọn, đi con đường này thì thế nào mà chọn con đường kia thì hậu quả ra sao để biết chịu tránh nhiệm về lựa chọn của mình chứ không phải chờ các em phải thốt lên " Vì tôi lỡ, vì tôi không biết", BS Đỗ Quang Minh chia sẻ.
Theo ông, để giới trẻ phải kêu lên "tôi lỡ, tôi không biết" là lỗi của những người đi trước. Bởi hiện nay, các bạn tiếp nhận rất nhiều kiến thức sức khỏe giới tính, sinh sản qua bạn bè, qua sách báo, qua internet nhưng chưa có hệ thống, không được kiểm chứng nên các em rất dễ đi lệch đường.
BS Đặng Phi Yến nhấn mạnh, việc phá thai ở tuổi học trò để lại nhiều biến chứng như nhiễm trùng, thủng tử cung, vô sinh... mà hầu hết các em không biết một cách khoa học nên khi lỡ là bỏ thai một cách rất dễ dàng. Đặc biệt việc bỏ cái thai đầu tiên có nguy cơ vô sinh cao hơn rất nhiều lần so với những cái thai sau đó.
Còn việc làm mẹ ở độ tuổi chưa trưởng thành rất dễ bị đẻ non, nhiễm độc thai, làm tăng nguy cơ tử vong mẹ. Các em sẽ dang dở con đường học hành, ảnh hưởng đến tương lai và dễ bị căng thẳng, khủng hoảng tâm lý.
Vậy nên, nếu không được trang bị kiến thức để bảo vệ mình, vẫn yêu liều thì các em sẽ phải đối mặt với hai con đường đều không sáng sủa đó.
Từ thực tế đó, việc giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản một cách nghiêm túc, khoa học, có hệ thống là điều không thể chần chừ. Chỉ khi được trang bị kiến thức, hiểu được hậu quả của việc mình làm, các bạn trẻ mới có thể có trách nhiệm với những quyết định của mình.
Theo Dantri
"Bệnh" ảo tưởng về con Con thiếu điểm vào ngôi trường có tiếng, bà mẹ tìm đến gặp lãnh đạo Sở đề nghị phải linh hoạt, đặc cách cho con mình. Bà lo lắng vì nếu cháu không được nhận vào trường chuyên thì "chúng ta đang mất đi Ngô Bảo Châu thứ 2". "Con tôi là... số 1" Một lãnh đạo trong ngành giáo dục TPHCM kể...