Giáo dục đại học – Chuẩn hóa và hội nhập
Đây là chủ đề Hội thảo Giáo dục 2018 do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội phối hợp với ĐHQG TPHCM tổ chức ngày 17/8 tại Hà Nội.
Sinh viên Trường ĐH Nguyễn Tất Thành thảo luận trong thư viện trường
Phát triển GD ĐH phải theo thông lệ quốc tế
Phát biểu tại Hội thảo, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh: GD, trong đó c ó GD ĐH không thể đứng ngoài thế giới, nên bắt buộc chúng ta phải hội nhập; phải theo đúng xu hướng thế giới với giải pháp phù hợp điều kiện của Việt Nam và có lộ trình. Trong đó, với điều kiện của Việt Nam hiện nay, tự chủ ĐH và giải trình là quan trọng nhất.
Theo Phó Thủ tướng, Việt Nam đã nói đến tự chủ ĐH từ khi thành lập ĐHQG, nhưng đến năm 2014, qua các cuộc cọ xát rất mạnh mẽ, chúng ta mới có 23 trường tự chủ theo Nghị định 77. Tuy nhiên, mới là tự chủ một phần, chưa đúng với thông lệ quốc tế.
Lý do có từ 3 phía: Từ cơ quan quản lý Nhà nước; từ chính các trường đại học vẫn muốn tiếp tục cơ chế bao cấp; và một phần từ người học và xã hội. Cả 3 lý do đó cộng hưởng lại nên vô cùng khó khăn.
Đưa ra 2 băn khoăn lớn nhất khi thực hiện tự chủ ĐH: Cho tự chủ, các trường cứ thế tăng học phí, ảnh hưởng đến quyền lợi của người học có điều kiện khó khăn được học trường chất lượng tốt; phần tài sản, đất đai… của trường ĐH sẽ bị thao túng… Phó Thủ tướng cho rằng, những khó khăn này không phải không có hướng giải quyết và trên thực tế thế giới đã có hướng giải quyết điều này.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại Hội thảo
Theo đó, liên quan đến tự chủ ĐH, tự chủ tài chính, chúng ta một mặt có cơ chế học bổng, từ người có khả năng, mong muốn đóng góp nhiều hơn để có chất lượng tốt hơn lập quỹ học bổng cho đối tượng diện chính sách và con nhà nghèo. Mặt khác, tự chủ không có nghĩa là Nhà nước không cấp ngân sách nữa mà dùng kinh phí từ ngân sách để đặt hàng đào tạo. Còn cơ chế đảm bảo tài sản, chúng ta có hội đồng trường gắn liền với trách nhiệm giải trình, công khai minh bạch.
Phó Thủ tướng cũng lưu ý cần hiểu cho đúng về tự chủ ĐH. Trường ĐH có nhiều sứ mệnh, một trong số đó là sáng tạo ra tri thức, nên trường ĐH cần tự chủ về chuyên môn, từ đó khơi dậy sáng tạo cho từng thành viên trong nhà trường. Đó là tự chủ căn bản nhất.
Để có quyền tự chủ đó, trường ĐH phải được tự quản về tổ chức và tự chủ về tài chính. Tự chủ tài chính phải hiểu là tự chủ về nguồn thu và nguồn chi. Thu có nhiều phần: Từ học phí, khoa học công nghệ, sản xuất kinh doanh và quan trọng là thu từ tài trợ của doanh nghiệp, cộng đồng; đặc biệt là từ ngân sách Nhà nước.
Khẳng định tự chủ ĐH là xu thế tất yếu, là yêu cầu, đòi hỏi chúng ta phải làm, phải luật hóa trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GD ĐH tới đây; trong hệ thống văn bản pháp luật hiện nay và hệ thống các luật khác có liên quan, Phó Thủ tướng mong mỏi, hội thảo lần này, các nhà lãnh đạo, các chuyên gia quốc tế, các nhà khoa học, doanh nghiệp có tiếng nói để Luật GD ĐH lần này được sửa một cách căn bản nhất. Có nhiều việc chúng ta đã làm, đã chuẩn bị, nhưng khi Luật chưa sửa thì có nhiều điều chưa thực hiện được.
Video đang HOT
Cùng quan điểm với Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cũng nhấn mạnh phải hướng đến chuẩn hóa và hội nhập quốc tế, phải tính đến xu hướng GD ĐH quốc tế.
Cũng theo Bộ trưởng, Bộ GD&ĐT đã phối hợp với Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, các chuyên gia trong nước và quốc tế, trong đó có chuyên gia của Ngân hàng Thế giới đến từ nhiều nước xây dựng Chiến lược tổng thể phát triển GD ĐH Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2035. Ba chủ đề của hội thảo về năng lực hệ thống GD ĐH; tài chính ĐH; quản lý Nhà nước và quản trị ĐH cũng bám rất chắc vào 3 trụ cột của Chiến lược trên.
Với “Chiến lược tổng thể phát triển GD ĐH Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2035″, Bộ trưởng tin tưởng, giai đoạn 2020 – 2030, GD ĐH Việt Nam sẽ dần đi vào nền nếp theo cách tiếp cận hệ thống và hội nhập.
Những giải pháp quan trọng cho GD ĐH
Nhận định của Phó Chủ tịch Quốc hội Đỗ Bá Tỵ, trong hơn 30 năm đổi mới, GD ĐH Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã từng bước được bổ sung, đổi mới. Mạng lưới các trường ĐH phát triển rộng khắp cả nước, đa dạng về loại hình, cấp bậc và ngành nghề đào tạo; quy mô đào tạo không ngừng tăng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân; các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo từng bước được cải thiện.
GD ĐH đã cung cấp cho đất nước hàng triệu nhân lực có trình độ ĐH, hàng vạn cán bộ có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ. Đây là lực lượng quan trọng, giữ vai trò nòng cốt của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thúc đẩy sự phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Đưa định hướng và giải pháp cho GD ĐH trong thời gian tới, Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc nhấn mạnh việc thể chế hóa (sửa đổi, bổ sung Luật GD ĐH và các quy định liên quan) để đổi mới căn bản và toàn diện. Cùng với đó là nâng cao năng lực hệ thống GD ĐH; đổi mới cơ chế tài chính ĐH; đổi mới quản lý Nhà nước về GD ĐH. Cho rằng, GD ĐH còn nhiều tiềm năng, nhưng quản lý Nhà nước phải đổi mới kịp thời để đáp ứng nhu cầu phát triển này, Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc tin tưởng, khi thay đổi cơ chế chính sách kịp thời, tạo động lực đúng đắn sẽ tạo bước đột phá trong phát triển GD ĐH.
Hiện nay trước sự vận động, phát triển không ngừng của khoa học – công nghệ và tri thức nhân loại, đặc biệt là trước yêu cầu của toàn cầu hóa, quốc tế hoá, Phó Chủ tịch Quốc hội Đỗ Bá Tỵ cho rằng, GD ĐH Việt Nam cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ để không chỉ đảm đương được trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho đất nước mà còn có sức hội nhập, cạnh tranh.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội Phan Thanh Bình, trong những năm qua, với quan điểm coi GD là quốc sách hàng đầu, sự nghiệp GD-ĐT của nước ta thời gian qua đã nhận được sự quan tâm, chỉ đạo nhất quán của Đảng, Nhà nước. Nhờ đó, lĩnh vực GD-ĐT nói chung, GD ĐH nói riêng, đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
Tuy nhiên, trước sự vận động, phát triển không ngừng của khoa học công nghệ và tri thức nhân loại, nền GD ĐH nước ta đang đứng trước yêu cầu phải đổi mới để đáp ứng ngày càng tốt hơn sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Đại diện Bộ GD&ĐT, Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc đánh giá, GD ĐH Việt Nam đã phát triển nhanh, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng đa dạng. Văn hóa chất lượng bước đầu hình thành ở các cơ sở GD ĐH. Công tác đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng được đẩy mạnh nhằm nâng cao chất lượng GD ĐH. Nghiên cứu khoa học, công bố quốc tế đã được chú trọng, xếp hạng quốc tế được cải thiện. Đổi mới, đẩy mạnh tự chủ ĐH bước đầu thu được kết quả tích cực.
Chất lượng đào tạo đại học trong hội nhập quốc tế và đáp ứng cuộc CMCN 4.0 đòi hỏi rất cao
Tuy nhiên, những thách thức cũng được đặt ra với GD ĐH Việt Nam liên quan đến việc thực hiện tự chủ ĐH; thách thức với chất lượng đào tạo để đáp ứng sự đòi hỏi cao hơn và sự thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế, cách mạng công nghiệp 4.0. Nghiên cứu khoa học ở các cơ sở GD ĐH còn chưa được quan tâm đúng mức và kết quả nghiên cứu, chuyển giao công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; công bố quốc tế còn thấp so với các nước phát triển trong khu vực Đông Nam Á. Năng lực quản trị, quản lý của các cơ sở GD ĐH chưa theo kịp yêu cầu của phát triển GD ĐH và hội nhập quốc tế…
Theo giaoducthoidai.vn
Đề xuất quy hoạch trường sư phạm, giải thể đại học vùng
Quá nhiều đại học, cao đẳng đào tạo giáo viên dẫn đến dư thừa, chất lượng nhân lực kém kéo theo cả hệ thống giáo dục kém.
Tại Hội thảo giáo dục năm 2018 với chủ đề "Giáo dục đại học - Chuẩn hóa và hội nhập quốc tế", nhiều đại biểu cho rằng cần quy hoạch lại mạng lưới đại học, cao đẳng, trung cấp sư phạm và cân nhắc việc giải thể đại học vùng.
Cần cấp bách quy hoạch mạng lưới trường sư phạm
Ông Nguyễn Văn Minh, Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Hà Nội, thông tin đến hết năm học 2016-2017, Việt Nam có 235 đại học, học viện. Đối với nhóm trường sư phạm và đào tạo giáo viên, hiện có 58 đại học, 57 cao đẳng, 40 trung cấp, trong đó có 14 đại học, 33 cao đẳng và 2 trung cấp sư phạm.
Với số lượng này, việc tuyển sinh nhiều chỉ tiêu cho nhóm ngành sư phạm trong điều kiện thiếu kiểm soát sẽ làm dư thừa nhân lực. "Việc đào tạo không gắn bó chặt chẽ với nhu cầu sử dụng đã gây ra những hậu quả đáng lo ngại cho toàn xã hội", ông Minh nói và cho biết thêm năm 2017, Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục đã thống kê cho thấy nhu cầu đội ngũ nhà giáo đến năm 2020 và các năm tiếp theo không còn cao như cách đây hai thập kỷ.
Ông Nguyễn Văn Minh, Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Hà Nội phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Dương Tâm
Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Hà Nội chia sẻ hầu hết trường đào tạo giáo viên thuộc hệ thống công lập. Trong điều kiện khó khăn, nền kinh tế không thể đầu tư đồng bộ cho hệ thống trường sư phạm cồng kềnh như hiện nay. Ngược lại, nếu cứ đầu tư dàn trải, các cơ sở đào tạo sư phạm sẽ không thể bứt phá.
Hơn thế nữa, theo ông Minh, việc tổ chức và chất lượng đào tạo của các trường đang không đồng nhất. "Điều này tác động không tích cực đến sự phát triển giáo dục vì muốn đổi mới thành công phải bắt đầu từ người thầy và không thể phát triển giáo dục nếu không có người thầy giỏi", ông Minh khẳng định.
Ở các nước, mạng lưới trường sư phạm rất gọn nhẹ. Các nước có xu hướng phát triển mô hình đào tạo giáo viên truyền thống thành trường đa ngành/khoa trong trường đại học đa ngành với chương trình đào tạo linh hoạt cho phép người học có nhiều lựa chọn đầu ra. Ví dụ Sigapore chỉ có một đơn vị đào tạo giáo viên trực thuộc Đại học Nanyang. Nhật Bản có 56 cơ sở đào tạo đều thuộc các trường.
Từ thực tế trên, ông Minh cho rằng cần cấp bách quy hoạch lại mạng lưới trường sư phạm nhằm hình thành cơ sở đủ mạnh, đào tạo có chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục.
Ông Minh đề xuất xây dựng hệ thống trường sư phạm gồm khu vực phía Bắc 3 cơ sở, miền Trung 2, miền Nam 2 và Tây Nguyên một cơ sở. Nguồn lực của các cơ sở này có thể đào tạo từ 15.000 đến 20.000 nhân lực giáo dục mỗi năm.
"Các cơ sở khác, trường cao đẳng sư phạm có thể quy hoạch thành phân hiệu, cơ sở thực hành, bồi dưỡng, trở thành nhân tố tác động tích cực và trực tiếp để phát triển giáo dục địa phương", ông Minh nói.
Trước thực tế nhiều đại học, cao đẳng sư phạm không tuyển sinh được, bà Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo) khẳng định Bộ đang quy hoạch lại hệ thống giáo dục đại học nói chung và hệ thống đào tạo giáo viên nói riêng.
Trao đổi bên lề hội thảo, bà Phụng thông tin việc quy hoạch đang được làm theo hướng sẽ có chuẩn chất lượng theo từng trường. Trên cơ sở đó, trường nào đảm bảo chất lượng thì tiếp tục được tuyển sinh và đào tạo. Trường nào không đảm bảo, cơ quan chủ quản phải xác định nếu cần thiết thì đầu tư để đảm bảo chất lượng, còn nếu không thì phải có thay đổi chức năng nhiệm vụ hoặc cho giải thể, sáp nhập nhằm làm lành mạnh cho cả hệ thống.
Đề xuất giải thể hoặc thay đổi mô hình đại học vùng
Từng là hiệu trưởng đại học thành viên đồng thời là giám đốc đại học vùng, GS Từ Quang Hiển, nguyên Giám đốc Đại học Thái Nguyên, thẳng thắn đề xuất giải thể các đại học vùng. Việt Nam đã thử nghiệm mô hình đại học vùng được 24 năm. Thực tế cho thấy mô hình này không phù hợp, làm kìm hãm sự phát triển của các trường thành viên.
"Vô tình chúng ta đang tạo ra cấp trung gian trong quản lý giáo dục đại học. Nó như cấp tổng cục vậy", ông Hiển nói và đề nghị lãnh đạo Quốc hội, Chính phủ nghiên cứu kỹ mô hình này.
Theo ông Hiển, giải thể được là tốt nhất. Nếu không, Quốc hội, Chính phủ nên nghiên cứu cơ chế quản lý nào đó để trao quyền tự chủ cho các trường thành viên. Cơ chế quản lý đại học vùng, đại học quốc gia cần được đổi mới để phát huy tác dụng cao nhất của trường thành viên.
Không nói cần giải thể đại học vùng nhưng GS Lâm Quang Thiệp (Đại học Thăng Long) nhận định mô hình hiện tại của cả đại học quốc gia và đại học vùng cần thay đổi vì đang làm các cơ sở giáo dục đại học không phát triển mạnh mẽ như mong muốn.
GS Lâm Quang Thiệp. Ảnh: Dương Tâm
Theo dõi việc xây dựng các đại học quốc gia và đại học vùng, ông Thiệp cho rằng các mô hình này có nhiều nhược điểm. Các trường thành viên quan hệ lỏng lẻo và hầu như độc lập với nhau về đào tạo nên ưu thế nâng cao chất lượng không thể hiện được, hiệu quả trong lĩnh vực nghiên cứu, phục vụ xã hội và đáp ứng thị trường lao động thấp.
"Với đại học hai cấp, các trường thành viên là trường đơn lĩnh vực, đơn ngành. Mô hình này không hiệu quả, làm nảy sinh nhiều vấn đề", ông Thiệp nói và cho rằng các cơ sở giáo dục đại học quan trọng của Việt Nam nên được xây dựng theo mô hình đại học đa lĩnh vực (university) thực sự chứ không nên sử dụng mô hình đại học hai cấp như hiện nay.
Ông Thiệp đề xuất hai giải pháp xử lý. Thứ nhất là cho phép trường thành viên đơn ngành, đơn lĩnh vực phát triển thành đại học đa lĩnh vực (university) và đại học hai cấp biến thành tập đoàn "university". Thứ hai là đại học hai cấp chuyển thành một "university" đơn nhất thực sự, thay đổi bộ phận điều phối trung gian thành cấp điều hành trực tiếp. Toàn bộ "university" có một chương trình đào tạo chung như kiểu Đại học Cần Thơ và một số đại học đa lĩnh vực ở Việt Nam.
Dương Tâm
Theo Vnexpress
Học phí đại học tăng cao, sinh viên có ngần ngại? "Tăng học phí là vấn đề rất nhạy cảm với xã hội và trực tiếp là người học, phải tính đến khả năng chi trả của sinh viên". Ý kiến trên được bà Đặng Thị Thanh Huyền, Học viện Quản lí Giáo dục đưa ra tại hội thảo Giáo dục 2018 với chủ đề Giáo dục đại học - Chuẩn hóa và hội...