Giải pháp nào cho hệ tại chức?
Số ý kiến bạn đọc gửi về Tòa soạn bàn luận, nhìn nhận rất nhiều góc độ khác nhau liên quan đến hệ đào tạo tại chức. Có nhiều ý kiến phê phán, đòi hỏi và cũng có không ít lời đề nghị nên đóng cửa hệ đào tạo này.
Chính quy và không chính quy
Giải bài toán “nồi cơm” Bài toán “nồi cơm” của các trường ĐH khác được giải quyết thế nào? Khi có công nghệ GDM&TX chuẩn hóa, các trường ĐH bình thường khác nếu muốn đào tạo KCQ phải sử dụng công nghệ đó. Còn các ĐH tự hào là các ĐH trọng điểm không nên đào tạo KCQ mà nên giải bài toán tăng thu nhập bằng những cách khác.
Hệ đào tạo trước đây gọi là tại chức nay Bộ GD-ĐT gọi là hệ vừa làm vừa học. Bên cạnh đó, còn hệ đào tạo từ xa, hệ tự học có hướng dẫn… Tất cả các hệ đào tạo đó được gộp dưới một tên gọi chung là hệ đào tạo không chính quy (KCQ), để phân biệt với hệ đào tạo chính quy thông thường. Hiện nay trong hơn 2 triệu sinh viên ĐH nước ta có gần một nửa thuộc hệ KCQ.
Bước vào thế kỷ 21, giáo dục ĐH có xu hướng đại chúng hóa mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu tăng hàm lượng tri thức trong mọi sản phẩm và dịch vụ, thỏa mãn nhu cầu của một xã hội học tập với đòi hỏi học suốt đời. Với xu thế đó, giáo dục ĐH chính quy sẽ dần co lại, còn giáo dục ĐH KCQ sẽ ngày càng mở rộng. Cho nên trước vấn đề chất lượng thấp của hệ KCQ, không nên và không thể tìm cách xóa bỏ hoặc thu hẹp hệ KCQ mà phải phát triển với một chất lượng chấp nhận được.
Video đang HOT
Với tính chất, mục đích khác biệt, không thể áp dụng phương thức đào tạo như chính quy đối với hệ tại chức. Trong ảnh: một lớp học của sinh viên năm 2 khoa Xây dựng hệ tại chức ĐH Bách khoa (ĐHQG TP.HCM)
Có thể thấy rằng hệ chính quy được tuyển sinh chặt chẽ, phần lớn là học và thi tại trường, ban ngày, đào tạo chủ yếu theo cách mặt-giáp-mặt (người dạy và người học gặp nhau nhiều), thời gian học tập một năm thường 8, 9 tháng… Ngược lại, hệ KCQ tuyển sinh không chặt chẽ (hoặc chỉ ghi danh học), phần lớn học và thi ở các địa điểm liên kết xa trường, học ban đêm, đào tạo chủ yếu theo phương thức giáo dục mở và từ xa (GDM&TX) vì tần suất mặt-giáp-mặt rất thấp. Thời gian học trong một năm thường chỉ tối đa vài tháng ở các địa điểm liên kết…
Mỗi hình thức một công nghệ đào tạo
Với đặc trưng đó, muốn đảm bảo chất lượng của GDM&TX phải có công nghệ tương ứng cho GDM&TX chứ không thể sử dụng công nghệ giáo dục mặt-giáp-mặt thông thường cộng với những quy định rất dễ dãi như chúng ta đang làm. Công nghệ GDM&TX cũng không có gì là bí hiểm, chỉ bao gồm một hệ thống tài liệu học tập tốt thích hợp và hệ thống công cụ đánh giá chặt chẽ cho mọi chương trình đào tạo ĐH, ngoài ra còn có cơ sở hạ tầng của công nghệ thông tin và truyền thông. Yếu tố quan trọng nhất của công nghệ GDM&TX là đánh giá chặt chẽ kết quả học tập: nếu đào tạo mặt-giáp-mặt, sản phẩm đào tạo được đánh giá qua cả một quá trình thì GDM&TX không có điều kiện để đánh giá trong cả quá trình nên buộc phải đánh giá chặt chẽ đầu ra của từng môn học trong chương trình đào tạo.
Một trường ĐH bình thường riêng lẻ không thể đủ nguồn lực để xây dựng được hệ thống công nghệ GDM&TX, mà Nhà nước phải có đầu tư ban đầu thích đáng. Ở các nước láng giềng như Thái Lan, Trung Quốc, nhà nước đã đầu tư tập trung cho một vài trường ĐH mở các nguồn lực lớn để xây dựng các hệ thống công nghệ nói trên và sử dụng công nghệ của các ĐH mở đó để làm nòng cốt đảm bảo một chất lượng chấp nhận được cho GDM&TX. Do đó họ rất thành công trong quản lý chất lượng hệ thống KCQ. Còn ở nước ta, hai ĐH mở đã được thành lập từ năm 1993 để phát triển GDM&TX nhưng đến nay đã trở thành “ĐH khép”. Trong lúc đó, một số trường ĐH khác, kể cả một số trường được xem là trọng điểm thì cố tăng số lượng đào tạo KCQ để giải quyết bài toán “nồi cơm”, mặc nhiên biến thành ĐH mở!
Đáng tiếc là một đề án phát triển GDM&TX 2005-2010 đã được Thủ tướng phê duyệt từ năm 2005 đến nay chưa được thực hiện! Điều này phản ánh một khiếm khuyết lớn của chiến lược phát triển giáo dục ĐH nước ta. Chỉ cần Nhà nước dành một vài phần trăm kinh phí cho các trường ĐH “đẳng cấp thế giới” để cấp cho hai ĐH mở thì cũng có thể giúp các ĐH này xây dựng hệ thống công nghệ GDM&TX chuẩn hóa. Từ đó mỗi ĐH mở có thể đào tạo hàng trăm ngàn sinh viên và công nghệ GDM&TX chuẩn hóa của họ có thể giúp các trường ĐH khác nâng cao chất lượng đào tạo cho gần một nửa tổng số sinh viên ĐH nước ta theo học hệ KCQ.
Khi có hai ĐH mở mạnh, Nhà nước có thể giao cho hai ĐH mở nhiều trách nhiệm lớn hơn: đánh giá để cấp bằng cho những người tự học hoặc cho sinh viên học ở các trường ĐH chưa được quyền cấp bằng. Khi ấy hai ĐH mở sẽ trở thành mắt xích – liên thông giữa hệ thống giáo dục ĐH chính quy với hệ thống KCQ, nói rộng ra là giữa hệ thống giáo dục ĐH chính quy với xã hội học tập, khuyến khích hoạt động học suốt đời, một nhân tố quan trọng của giáo dục trong thế kỷ 21.
Theo tuổi trẻ
Sẽ có 5 loại bằng tốt nghiệp đại học
Theo dự thảo được Bộ GD-ĐT thông báo ngày 9/5, sẽ có 5 loại bằng mẫu văn bằng tốt nghiệp đại học và 24 chi tiết được ghi trên đó.
5 loại bằng tốt nghiệp đại học gồm: Bằng kỹ sư (mẫu bằng tốt nghiệp đại học của ngành kỹ thuật); bằng kiến trúc sư (mẫu bằng tốt nghiệp đại học của ngành kiến trúc); bằng bác sĩ, mẫu bằng dược sĩ, mẫu bằng cử nhân (mẫu bằng tốt nghiệp đại học của ngành y, dược); bằng Cử nhân (mẫu bằng tốt nghiệp đại học của các ngành khoa học cơ bản, sư phạm, luật, kinh tế) và mẫu bằng tốt nghiệp đại học của các ngành còn lại.
Bằng tốt nghiệp đại học gồm bốn 4 trang, mỗi trang có kích thước 21cm x 14,5cm. Trang 1 và trang 4 có nền màu đỏ, trang 1 có hình Quốc huy, các chữ in trên trang 1 có màu vàng; trang 2 và trang 3 có nền màu vàng, hoa văn viền màu vàng đậm, tên bằng có màu đỏ, các chữ khác có màu đen; hình trống đồng in chìm chính giữa trang 2, hình Quốc huy in chìm chính giữa trang 3.
24 quy định ghi nội dung trên bằng tốt nghiệp đại học:
(1) Ghi chức danh của thủ trưởng cơ sở giáo dục có thẩm quyền cấp bằng tốt nghiệp đại học, bằng Tiếng Việt. (2) Ghi tên cơ sở giáo dục, bằng Tiếng Việt. (3) Ghi tên ngành đào tạo mà người được cấp bằng đã theo học, bằng Tiếng Việt. (4) Ghi rõ họ tên của người học, theo giấy khai sinh. (5) Ghi "Nam" hoặc "Nữ" theo giấy khai sinh, bằng Tiếng Việt.
(6) Ghi ngày, tháng, năm sinh theo giấy khai sinh. Nếu ngày sinh từ ngày 01 đến ngày 09, tháng sinh là tháng 1, tháng 2 thì ghi thêm số 0 phía trước; ghi năm sinh đầy đủ 4 chữ số.
(7) Ghi năm người học tốt nghiệp, đầy đủ 4 chữ số.
(8) Ghi Xuất sắc, Giỏi, Khá, Trung bình khá hoặc Trung bình theo Quy chế đào tạo.
(9) Ghi một trong các hình thức: "Chính quy", "Vừa làm vừa học", "Học từ xa", "Tự học có hướng dẫn".
(10) Ghi địa danh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi cơ sở giáo dục cấp văn bằng đặt trụ sở chính.
(11) Ghi ngày, tháng, năm cấp văn bằng.
(12) Thủ trưởng cơ sở giáo dục ký, ghi rõ họ tên và đóng dấu theo quy định.
(13) Số hiệu: do cơ quan in phôi văn bằng ghi khi cấp phôi.
(14) Số vào sổ cấp bằng: do cơ sở giáo dục ghi vào sổ gốc cấp văn bằng khi cấp bằng tốt nghiệp đại học. (15), (16) Ghi chức danh của thủ trưởng cơ sở giáo dục và tên cơ sở giáo dục có thẩm quyền cấp bằng tốt nghiệp đại học, bằng Tiếng Anh. (17) Ghi tên ngành đào tạo mà người được cấp bằng đã theo học, bằng Tiếng Anh. (18) Ghi đầy đủ họ tên như đã ghi ở điểm (4) bằng Tiếng Việt nhưng không có dấu. (19) Nam ghi "Male", Nữ ghi "Female". (20), (25) Ghi ngày và năm bằng số, tháng bằng chữ tiếng Anh. (Ví dụ: Tiếng Việt ghi "ngày 07 tháng 10 năm 2005" thì Tiếng Anh ghi "07 October 2005"). (21) Ghi bằng số như (7). (22) Ghi xếp loại tốt nghiệp: loại Xuất sắc ghi "Excellent", loại Giỏi ghi "Very good", loại Khá ghi "Good", loại Trung bình khá ghi "Average good", loại Trung bình ghi "Ordinary". (23) Ghi hình thức đào tạo: "Chính quy" ghi "Full-time", "Vừa làm vừa học" ghi "Part-time", "Học từ xa" ghi "Distance learning", "Tự học có hướng dẫn" ghi "Guided Self - learning". (24) Ghi địa danh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi cơ sở giáo dục cấp văn bằng đặt trụ sở chính (Ví dụ: Tiếng Việt ghi "Hà Nội" thì Tiếng Anh ghi "Hanoi").
Theo Kênh14
Trường ĐH trung thành với sứ mạng đào tạo chất lượng cao Tâm nguyện xây dựng mô hình đào tạo chất lượng cao của Đại học Kinh tế Tài chính TP.HCM (UEF) khởi đầu từ sự ấp ủ và gặp nhau trên những ý tưởng cao đẹp giữa các nhà giáo yêu nghề và các doanh nhân thành đạt vốn xuất thân từ những nhà giáo, đã từng trăn trở và mong mỏi về sự...