Giải pháp hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế Việt Nam
Thống kê sơ bộ cho thấy, ở Việt Nam, đã có một thời gian dài tỷ lệ đô la hóa trong nền kinh tế luôn ở mức trên 20%, trong khi tỷ lệ này ở các nước trong khu vực thấp hơn rất nhiều như: Indonesia, Thái Lan, Malaysia… chỉ khoảng 7-10%.
Việc hạn chế tình trạng đô la hóa ở các nước là vấn đề mang tầm vĩ mô, không phải là câu chuyện “một sớm, một chiều” có thể giải quyết. Bài viết tập trung làm rõ bản chất, nguyên nhân, tác động của tình trạng đô la hóa đến các nền kinh tế và thực trạng đô la hóa ở Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của đô la hóa đối với nền kinh tế Việt Nam.
Tổng quát về hiện tượng đô la hóa
Quan điểm về hiện tượng đô la hóa trong nền kinh tế
Đô la hóa là tình trạng mà tỷ trọng tiề.n gửi bằng ngoại tệ chiếm trên 30% trong tổng khối tiề.n tệ mở rộng, bao gồm: Tiề.n mặt trong lưu thông, tiề.n gửi không kỳ hạn, tiề.n gửi có kỳ hạn và tiề.n gửi ngoại tệ. Hiện tượng đô la hóa được phân ra làm 3 loại sau:
- Đô la hóa không chính thức: Là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận. Các nước ở trong tình trạng này, phần lớn người dân đã quen với việc sử dụng đồng đô la, nhưng Chính phủ vẫn cấm niêm yết giá hàng hóa bằng đô la, cấm sử dụng đô la để chi trả trong hầu hết các giao dịch trong nước.
- Đô la hóa bán chính thức (đô la hóa từng phần): Là tình trạng đồng đô la được sử dụng như một đơn vị kế toán, phương tiện trao đổi, dự trữ giá trị và phương tiện thanh toán, trong khi đồng nội tệ vẫn tồn tại và lưu thông. Đồng đô la có chức năng như một đồng tiề.n hợp pháp thứ hai của nền kinh tế. Các nước trong tình trạng này vẫn duy trì một ngân hàng trung ương để thực hiện chính sách tiề.n tệ của họ.
- Đô la hóa chính thức (đô la hóa hoàn toàn): Là tình trạng xảy ra khi đồng ngoại tệ là đồng tiề.n hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là, đồng ngoại tệ không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân, mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng ngoại tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ yếu và thường chỉ là đồng tiề.n xu hay các đồng tiề.n mệnh giá nhỏ. Thông thường, các nước chỉ áp dụng đô la hóa chính thức khi đã thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế
Về lý thuyết, một khi người dân mất lòng tin vào chính sách tiề.n tệ quốc gia do tỷ lệ lạm phát không ổn định trong thời gian dài và ngày càng có chuyển biến theo chiều hướng tiêu cực, cộng với việc tỷ giá hối đoái giảm, điều này khiến chi phí bảo hiểm rủi ro đối với các tài sản danh nghĩa bằng đồng nội tệ tăng cao, tức chủ sở hữu tài sản phải mất nhiều tiề.n hơn để đảm bảo độ an toàn cho tài sản của mình trước tình trạng tỷ giá luôn biến động không ngừng. Trước thực trạng đó, người dân sẽ chuyển các tài sản danh nghĩa sang một đồng tiề.n ổn định hơn, trong đó có đồng đô la Mỹ (USD), hoặc đầu tư vào các tài sản thực.
Một số quốc gia có mức tiết kiệm thấp và thời hạn tương đối ngắn của các loại tiề.n gửi, giấy tờ có giá… đã buộc Nhà nước phải đi vay các ngân hàng nước ngoài bằng đồng ngoại tệ mà thông dụng nhất vẫn là USD, dẫn đến việc đô la hóa các khoản nợ này.
Tác động của tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế
Về mặt tích cực, đô la hóa có các tác động sau: (i) Tạo van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ lạm phát cao, kinh tế vĩ mô không ổn định; (ii) Duy trì được một tỷ lệ lạm phát lý tưởng để tăng tính an toàn cho các loại tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn; (iii) Tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội nhập kinh tế quốc tế; (iv) Hạ thấp các chi phí giao dịch thương mại có liên quan đến ngoại hối và rủi ro về tỷ giá hối đoái; (v) Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phi chính thức.
Về mặt tiêu cực, đô la hóa có các tác động sau: (i) Ảnh hưởng đến việc hoạch định và thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô của quốc gia bị đô la hóa, (ii) Chính sách tiề.n tệ của một quốc gia bị phụ thuộc nặng nề vào nền kinh tế Mỹ; (iii) Làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương – vốn là người cho vay cuối cùng của hệ thống ngân hàng.
Video đang HOT
Thực trạng đô la hóa trong nền kinh tế Việt Nam
Trong thập kỷ qua, mặc dù lạm phát đã được kiểm soát và có xu hướng ổn định ở mức thấp, đô la hoá vẫn còn là hiện tượng phổ biến ở các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi, trong đó có Việt Nam.
Nhìn chung, nền kinh tế Việt Nam luôn đang trong tình trạng đô la hóa không chính thức (Hình 1), tỷ lệ đô la hóa thường lớn hơn 20% (giai đoạn trước năm 2010) và lớn hơn 10% (giai đoạn sau năm 2010). Cụ thể, tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế Việt Nam có thể khái quát qua các giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1992-1996: Mức độ đô la hóa ở Việt Nam là khá cao, đặc biệt trong 3 năm (1992, 1993 và 1994), tỷ lệ này luôn cao hơn 30%, Điều này cho thấy, kinh tế Việt Nam ở thời điểm đó đang ở trong tình trạng đô la hóa bán chính thức. Năm 1992, cùng với đà tăng trưởng và sự phục hồi của nền kinh tế kể từ sau công cuộc đổi mới, lượng tiề.n gửi bằng USD đã chiếm đến 40% tổng lượng tiề.n gửi vào các ngân hàng. Đây là con số rất đáng báo động trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam vừa bước ra khỏi giai đoạn trì trệ, bao cấp và dần chuyển hướng sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Giai đoạn 1996-2001: Mức độ đô la hóa trong nền kinh tế Việt Nam vẫn khá cao và luôn ở mức trên 20%. Trong vòng 5 năm, tỷ lệ tiề.n gửi ngoại tệ trong tổng lượng tiề.n gửi vào hệ thống ngân hàng tại Việt Nam tăng từ 20% lên đến 31,5%. Xu hướng này là do người dân và các doanh nghiệp đã tăng cường việc gửi ngoại tệ vào tài khoản ngân hàng nhằm mục đích đảm bảo an toàn tài sản do những quan ngại trước những dấu hiệu bong bóng kinh tế của Thái Lan vốn đang tăng trưởng rất nhanh và mạnh so với các quốc gia khác trong khu vực. Điều này khiến cho tỷ lệ đô la hóa ở Việt Nam trong giai đoạn này tăng nhanh, bất chấp những chính sách điều tiết của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước.
- Giai đoạn 2001-2003: Tỷ lệ đô la hóa kinh tế Việt Nam vẫn duy trì ở mức trên 20%, tức Việt Nam vẫn đang trong tình trạng đô la hóa không chính thức, tuy nhiên đã xuất hiện những tín hiệu lạc quan. Cụ thể là trong vòng 2 năm, bằng nỗ lực của Chính phù và Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ đô la hóa đã giảm mạnh từ mức 31,5% xuống chỉ còn 21%.
- Giai đoạn 2003-2010: Có thể thấy, tình trạng đô la hóa ở Việt Nam vẫn còn là một bài toán nan giải cho các nhà hoạch định chính sách, bởi sau những nỗ lực nhất định nhằm kiềm chế tốc độ tăng của tỷ lệ tiề.n gửi ngoại tệ trong tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế, thì tỷ lệ này vẫn luôn ở trên mức 20%, kinh tế Việt Nam vẫn trong tình trạng đô la hóa không chính thức.
- Giai đoạn 2010 đến nay: Ngân hàng Nhà nước đã triển khai đồng bộ các giải pháp và công cụ điều hành, nhất là sự phối hợp giữa chính sách lãi suất và tỷ giá để duy trì sức hấp dẫn của VND so với USD. Vào thời điểm tháng 8/2015, thị trường ngoại tệ trong nước chịu áp lực rất lớn từ biến động bất thường trên thị trường quốc tế (Trung Quốc phá giá CNY), tỷ giá tăng chạm trần, tâm lý găm giữ ngoại tệ gia tăng. Ngân hàng Nhà nước đã giảm trần lãi suất tiề.n gửi USD về 0%/năm đối với tổ chức vào nửa cuối năm 2015; đồng thời, tích cực bán ngoại tệ can thiệp; tích cực truyền thông; từ năm 2016, chuyển sang điều hành theo cơ chế tỷ giá trung tâm… Nhờ thực hiện đồng bộ các giải pháp trên, từ năm 2015 đến nay, tỷ giá và thị trường ngoại hối về cơ bản ổn định, tâm lý thị trường được giải tỏa, thanh khoản thị trường cải thiện, tình trạng găm giữ ngoại tệ giảm, nhờ đó tỷ lệ đô la hóa trong nền kinh tế tiếp tục có xu hướng giảm.
Đã có nhiều phân tích, đán.h giá nguyên nhân của hiện tượng đô la hóa, vẫn tồn tại có thể tổng kết, lại những nguyên nhân sau:
Một là, đô la hóa do nhu cầu thanh toán quốc tế gia tăng và do ảnh hưởng của các dòng vốn quốc tế. Kể từ khi thực hiện mở cửa nền kinh tế, kim ngạch xuất, nhập khẩu và các dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng, bởi vậy, các doanh nghiệp có nhu cầu nắm giữ một lượng ngoại tệ lớn để phục vụ nhu cầu mở rộng thương mại và đầu tư quốc tế.
Hai là, kiều hối gia tăng cùng với các quy định cho phép các cá nhân nắm giữ ngoại tệ dưới hình thức tiết kiệm và tài khoản ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng, cất giữ dưới dạng ngoại tệ tiề.n mặt.
Ba là, đô la hóa do chưa cân bằng lợi ích nắm giữ giữa VND và USD, chủ yếu do biến động về tỷ giá, lãi suất thực tế và kỳ vọng, nhất là khi VND chưa phải là đồng tiề.n chuyển đổi, lạm phát của Việt Nam tương đối cao so với các nước trên thế giới và khu vực.
Bốn là, mặc dù, Pháp lệnh số 06/2013/UBTVQH ngày 18/3/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối quy định, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo không được thực hiện bằng ngoại hối trừ một số trường hợp, nhưng trên thực tế, việc thực thi và xử lý các quy định pháp lý này chưa nghiêm, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, lực lượng quản lý thị trường… nên giao dịch thanh toán bằng ngoại tệ tiề.n mặt vẫn tồn tại trên thị trường tự do.
Đề xuất giải pháp khắc phục
Để khắc phục tình trạng đô la hóa, đòi hỏi phải có nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó, đố với cơ quan quản lý nhà nước cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
Một là, cần có những đán.h giá về tình hình thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong thời gian qua, từ đó có sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với mục tiêu hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế.
Hai là, điều hành chính sách tiề.n tệ, tỷ giá cần theo hướng tăng lợi ích nắm giữ VND ở mức hợp lý để khuyến khích sử dụng đồng nội tệ, hạn chế sử dụng ngoại tệ. Công cụ có thể sử dụng là tăng dự trữ bắt buộc áp dụng đối với tiề.n gửi ngoại tệ cao hơn nhiều so với dự trữ bắt buộc áp dụng đối với tiề.n gửi (có nước đã tăng dự trữ bắt buộc lên tới mức 30 – 50% áp dụng đối với tiề.n gửi ngoại tệ nhằm thu hẹp quy mô nắm giữ đồng ngoại tệ) hay trần lãi suất đối với tiề.n gửi ngoại tệ.
Ba là , tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc giám sát việc thực hiện các quy định về quản lý ngoại hối trên phạm vi cả nước, thuộc mọi thành phần kinh tế, phải đảm bảo xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, cần có chế tài xử phạt nặng đối với các trường hợp vi phạm pháp luật về quản lý ngoại hối.
Bốn là, đi đôi với việc giám sát và xử lý nghiêm việc thực hiện các quy định về quản lý ngoại hối, đảm bảo tại Việt Nam các giao dịch được thực hiện bằng tiề.n Việt Nam, các ngân hàng thương mại, tổ chức kinh tế cần tăng phí đổi tiề.n lên cao để người dân hạn chế nắm giữ ngoại tệ, chuyển sang nắm giữ VND.
Tài liệu tham khảo:
1. Saga (2015), Đôi nét về qua trình đô la hóa tại Việt Nam, https://www.saga. vn/doi-net-ve-qua-trinh-do-la-hoa-tai-viet-nam~34426;
2. Phạm Thị Hoàng Anh (2017), Dollarization and De-dollarization Policies: The Case of Vietnam, https://link.springer.com/chapter/10.1007/978-3-319-57768-5_5;
3. Thời bao Tài chính Việt Nam (2018), Hạn chế tình trạng đô la hóa, nâng cao vị thế VND, http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/thoi-su/2018-01-13/ han-che-tinh-trang-do-la-hoa-nang-cao-vi-the-dong-vnd-52625.aspx>.
Thanh khoản dồi dào, tỷ giá giữ được xu hướng ổn định
Các chuyên gia cho rằng tỷ giá nhiều khả năng sẽ tiếp tục đi theo xu hướng giảm nhẹ trong thời gian còn lại của năm 2020 một phần do yếu tố găm giữ, đầu tư ngoại tệ giảm...
Ảnh minh họa. (Ảnh: CTV/Vietnam )
Giới chuyên gia ghi nhận sự điều hành chính sách tiề.n tệ, tỷ giá hết sức chủ động, linh hoạt của Ngân hàng Nhà nước đã giúp thị trường tiề.n tệ, ngoại hối trong nước cơ bản ổn định, bất chấp những biến động liên tục của thị trường tài chính toàn cầu.
Cung, cầu ổn định
Cuối tháng 11, Ngân hàng Nhà nước bất ngờ giảm mạnh giá USD mua vào tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước tới 50 đồng, từ 23.175 xuống còn 23.125 đồng/USD sau khi giữ giữ ổn định trong gần 1 năm vừa qua. Nếu tính cả lần điều chỉnh mới nhất, Ngân hàng Nhà nước đã có tổng cộng 4 lần giảm tỷ giá USD/VND mua vào kể từ năm 2015 đến nay.
Các chuyên gia tại Ban Kinh doanh Vốn và Tiề.n tệ BIDV phân tích động thái này mang lại lợi ích trên nhiều phương diện bao gồm tiết giảm chi phí mua vào ngoại tệ trong giai đoạn khối lượng ngoại tệ bán về Ngân hàng Nhà nước có xu hướng tăng nhanh.
Động thái này cũng góp phần quan trọng giúp Ngân hàng Nhà nước phát đi tín hiệu về việc đã, đang và sẽ điều hành tỷ giá một cách linh hoạt, "chưa và không bao giờ sử dụng tỷ giá để tạo lợi thế cạnh tranh trong giao dịch thương mại quốc tế" như phát biểu của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tại Hội nghị Thống đốc ASEAN tháng Mười vừa qua. Bên cạnh đó, góp phần giảm bớt căng thẳng với Mỹ trong câu chuyện thao túng tiề.n tệ.
[Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm 50 đồng với giá USD mua vào]
Trong khi đó, nhu cầu ngoại tệ đối với các hoạt động du lịch, chữa bệnh, du học... nhìn chung vẫn chưa thể phục hồi do dịch bệnh COVID-19 hiện vẫn diễn biến căng thẳng tại Mỹ và châu Âu. Qua đó, cung cầu ngoại tệ trong nước duy trì mức thặng dư lớn tạo điều kiện để Ngân hàng Nhà nước mua vào khoảng 3 tỷ USD trong tháng 11 và tính từ đầu năm tới nay là khoảng 11,5 tỷ USD.
Theo ghi nhận tại thị trường, ngay sau quyết định của Ngân hàng Nhà nước, tỷ giá giao dịch trên thị trường liên ngân hàng cũng đã xuất hiện bước điều chỉnh với cường độ nhẹ, giảm khoảng 20-25 đồng, còn tại các ngân hàng thương mại, tỷ giá cũng đã giảm khoảng 40 đồng và hiện đang ổn định ở mức 23.010-23.220 đồng/USD (mua vào-bán ra).
Các chuyên gia nhận định, nhìn chung từ đầu năm đến nay, ngoại trừ tháng Ba tỷ giá có biến động nhẹ, do tác động dịch COVID-19 và giãn cách nên có những xao động, có sự giảm giá VND tuy nhiên ngay lập tức Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã can thiệp và có ý kiến, từ đó VND quay trở lại ổn định.
"Đợt giảm giá mạnh của VND như cuối tháng Ba khó xảy ra do USD đang mất giá mạnh trên thị trường quốc tế và tâm lý thị trường trong nước cũng vững vàng hơn giai đoạn trước," các chuyên gia của SSI phân tích.
Công ty Chứng khoán KB Securities Việt Nam (KBSV) cũng cho rằng nếu so sánh với các đồng tiề.n khác trong khu vực, VND vẫn tiếp tục được đán.h giá là đồng tiề.n ổn định trong nửa đầu năm 2020. Việc ổn định tỷ giá đang tạo đà cho lạm phát dần lùi về mức mục tiêu là 4%, qua đó góp phần duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Đó là tiề.n đề để nền kinh tế có thể phục hồi tăng trưởng bền vững.
Theo chuyên gia tài chính ngân hàng Cấn Văn Lực, tỷ giá ổn định và đi theo xu hướng giảm một phần cũng là do không còn việc găm giữ, đầu cơ ngoại tệ như trước đây vì giữ USD không có lời trong khi các kênh đầu tư khác như bất động sản, chứng khoán hấp dẫn hơn.
Dự trữ ngoại hối dồi dào
Thực tế là để ổn định tỷ giá, thị trường ít nhiều không thể không nhờ đến "bàn tay" của Ngân hàng Nhà nước. Chính Ngân hàng Nhà nước cũng cho biết, trong một số giai đoạn, nhà điều hành đã thực hiện mua ngoại tệ từ các tổ chức tín dụng, bổ sung cho dự trữ ngoại hối khi điều kiện thị trường thuận lợi.
Mặc dù Ngân hàng Nhà nước không không bố con số dự trữ ngoại hối nhưng các chuyên gia cho rằng, tính đến tháng Mười dự trữ ngoại hối đạt khoảng 92 tỷ USD và dự kiến đến cuối năm sẽ đạt 100 tỷ USD.
Ngân hàng Thế giới đán.h giá, con số 92 tỷ USD chứng tỏ khả năng phục hồi của nền kinh tế đất nước. Việt Nam đã đạt mức thặng dư thương mại hàng hóa cao kỷ lục và thu hút được dòng vốn FDI lớn cho dù có đại dịch (tính đến ngày 20/11 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 26,4 tỷ USD). Hoạt động này đã giúp giảm thiểu tác động của việc giảm lượng kiều hối và thu nhập bằng ngoại tệ từ du khách nước ngoài. Cán cân thanh toán của Việt Nam thể hiện tính chống chịu cao khi tỷ giá VND/USD được duy trì ở mức ổn định.
"Đây là tín hiệu đáng mừng đối với Việt Nam, là thành công trong điều hành chính sách ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước. Nó còn là một bộ đệm quan trọng giúp nền kinh tế chống đỡ lại các "cú sốc" từ bên ngoài, qua đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô , củng cố lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài. Gia tăng dự trữ ngoại hối giúp Ngân hàng Nhà nước có nhiều dư địa và giải pháp phù hợp trong việc điều hành chính sách tiề.n tệ, tạo thuận lợi cho việc điều hành linh hoạt và ổn định tỷ giá, nâng cao giá trị tiề.n đồng," chuyên gia ngân hàng, tiến sỹ Nguyễn Trí Hiếu nhấn mạnh.
Tuy nhiên, ông Hiếu cũng đặt ra câu hỏi Việt Nam phải làm gì để không bị đưa vào danh sách thao túng tiề.n tệ của Mỹ? Để tránh rủi ro này, ông cho rằng Việt Nam cần tạo ra thương mại cân bằng hơn đối với Hoa Kỳ, giảm dần mức độ xuất siêu sang thị trường này và nên sử dụng tối đa các biện pháp ngoại giao nếu rủi ro này tăng lên.
Dự báo tỷ giá ngoại tệ từ nay đến cuối năm, các chuyên gia của Công ty Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) cho rằng tỷ giá nhiều khả năng sẽ tiếp tục đi theo xu hướng giảm nhẹ trong thời gian còn lại của năm 2020.
Đồng quan điểm, ông Hiếu cho rằng với biến động khó lường từ thế giới thì tỷ giá ngoại tệ tại Việt Nam vẫn sẽ có khả năng giảm nhẹ. Nhiều dự báo cho thấy USD sẽ tiếp tục mất giá khi lãi suất đồng USD đang ở sát 0%, trong khi Chính phủ Mỹ vẫn đang tiếp tục bơm một khối lượng tiề.n tệ rất lớn vào nền kinh tế.
Cụ thể, ngày 8/12, Bộ trưởng Tài chính Steven Mnuchin cho biết ông đã trình bày đề xuất về gói kích thích kinh tế mới nhằm giảm thiểu tác động của đại dịch COVID-19 trị giá 916 tỷ USD trong cuộc thảo luận với Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi. Theo đó, gói kích thích bao gồm các khoản tiề.n hỗ trợ cho chính quyền bang và địa phương và bảo vệ pháp lý cho các doanh nghiệp./.
Tiề.n đồng mạnh lên sẽ củng cố dòng vốn ngoại đổ vào Việt Nam Tỷ giá sẽ duy trì ổn định ở mức hiện tại từ nay đến cuối năm 2020. Tuy nhiên, dự báo tỷ giá giữa VND/USD sẽ dao động trong biên độ hẹp /- 0,5% trong năm 2021 - điều này sẽ củng cố dòng vốn ngoại đổ vào Việt Nam. Tỷ giá sẽ ổn định từ nay đến cuối năm Theo số liệu...