Giải mã tầm quan trọng mối quan hệ kinh tế của Iran với Trung Quốc
Việc thắt chặt quan hệ giữa Trung Quốc và Iran được coi là một trong những yếu tố chính ngăn chặn sự sụp đổ của nền kinh tế Iran, vốn đã phải chịu lệnh trừng phạt kể từ khi Mỹ rút khỏi thỏa thuận hạt nhân vào năm 2018.
Dầu mỏ là một trong những lĩnh vực hợp tác chính giữa Iran và Trung Quốc. Ảnh: IRNA/TTXVN
Theo nhận định mới đây của Tiến sĩ Tomer Fadlon và Tiến sĩ Raz Zimmt tại Viện Nghiên cứu An ninh Quốc gia Israel (INSS), trong bối cảnh các lệnh trừng phạt kinh tế khắc nghiệt từ Mỹ và ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, quan hệ kinh tế giữa Iran và Trung Quốc đã trở nên ngày càng gắn kết. Tuy nhiên, mối quan hệ này vẫn có những hạn chế và chủ yếu là sự phụ thuộc của Iran vào Trung Quốc, thay vì một quan hệ đối tác thực sự bình đẳng.
Sự thắt chặt quan hệ kinh tế giữa Iran và Trung Quốc
Iran đã phát triển quan hệ ngoại giao với Trung Quốc kể từ năm 1971, khi Trung Quốc gia nhập Liên hợp quốc và được trao một ghế trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Sau cuộc cách mạng Hồi giáo năm 1979 ở Iran, Trung Quốc dần trở thành một nhân tố quan trọng với Tehran. Trung Quốc coi Tehran là đối trọng chính trị với Mỹ, một tài sản kinh tế có thị trường quan trọng và là nguồn năng lượng cực kỳ giá trị.
Đổi lại, Iran coi Trung Quốc là thành trì chống lại phương Tây, đặc biệt là trên trường quốc tế. Sự cô lập về ngoại giao của Iran đã dẫn đến mối quan hệ chặt chẽ hơn với Trung Quốc, đặc biệt là trong Chiến tranh Iran-Iraq, khi Tehran cần viện trợ quân sự, kinh tế và công nghệ, mà họ đã nhận được từ Trung Quốc. Sau khi chiến tranh kết thúc, khi Iran tìm cách tái thiết, Tehran đã nâng cấp quan hệ với Bắc Kinh. Trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, Trung Quốc đã cung cấp cho Iran vũ khí và chuyên môn kỹ thuật cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng dân sự và năng lượng tại quốc gia này.
Trong thời gian tiếp theo, trước bối cảnh các công ty phương Tây từ bỏ Iran sau khi các lệnh trừng phạt kinh tế được áp đặt, Trung Quốc thì không, thậm chí còn mở rộng ảnh hưởng của mình ở đó. Cho đến khi các lệnh trừng phạt được gỡ bỏ sau thỏa thuận hạt nhân được Iran và các cường quốc toàn cầu ký kết vào tháng 7/2015, Trung Quốc đã là đối tác kinh tế chính và gần như duy nhất của Iran.
Video đang HOT
Sau khi các lệnh trừng phạt được dỡ bỏ, Tổng thống Iran Hassan Rouhani khi đó đã cố gắng thu hút càng nhiều đầu tư nước ngoài càng tốt và mở cửa thị trường Iran cho các công ty phương Tây. Tuy nhiên, khi chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump rút khỏi thỏa thuận hạt nhân vào tháng 5/2018 và áp đặt lại các lệnh trừng phạt kinh tế đối với Iran, chính phủ nước này buộc phải dựa vào Trung Quốc một lần nữa và tìm kiếm sự hỗ trợ của Bắc Kinh để lách các lệnh trừng phạt.
Việc cải thiện quan hệ giữa Iran và Trung Quốc bắt đầu nổi bật hơn vào giai đoạn đỉnh điểm của đại dịch COVID-19, khi hai quốc gia ký kết thỏa thuận hợp tác dài hạn nhằm tăng cường quan hệ kinh tế. Bất chấp việc thỏa thuận này được kỳ vọng mang lại nhiều lợi ích cho Iran, nó vẫn mang tính không đối xứng. Trung Quốc cung cấp cho Iran các sản phẩm thay thế cho nhiều mặt hàng phương Tây nhưng không thực sự giải quyết được các vấn đề kinh tế cốt lõi của Iran như nhu cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
Trong khi đó, Trung Quốc mua dầu của Iran với mức giá chiết khấu đáng kể, khai thác sự cô lập của Iran trên thị trường quốc tế và tăng cường sự hiện diện của mình qua thương mại.
Tuy nhiên, Trung Quốc không mang lại đầu tư đáng kể vào Iran, khiến nền kinh tế Iran tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức. Mối quan hệ này thực chất là một chiều, khi Iran không có nhiều lựa chọn thay thế cho Trung Quốc và buộc phải chấp nhận các điều kiện thương mại bất lợi.
Mặc dù vậy, sự gắn kết giữa Iran và Trung Quốc phần lớn bắt nguồn từ bối cảnh chính trị và chiến lược. Iran coi Trung Quốc là một đối tác chiến lược chống lại áp lực của Mỹ, trong khi Trung Quốc xem Iran như một nguồn năng lượng quan trọng và một đối trọng chính trị trong khu vực. Sau khi Mỹ rút khỏi thỏa thuận hạt nhân năm 2018 và tái áp đặt các lệnh trừng phạt, Iran càng xích lại gần Trung Quốc, nơi mà Bắc Kinh tận dụng thế khó của Iran trong việc tìm kiếm các đối tác kinh tế khác.
Thỏa thuận hợp tác 25 năm ký kết vào năm 2021 giữa Iran và Trung Quốc được kỳ vọng sẽ mang lại hàng tỷ USD đầu tư của Trung Quốc vào Iran để đổi lấy nguồn cung dầu giá rẻ. Nhưng cho đến nay, thỏa thuận này vẫn chưa mang lại kết quả thực chất. Trung Quốc chỉ đầu tư một phần nhỏ vào Iran, chủ yếu vào các ngành xây dựng, thay vì các lĩnh vực chiến lược như năng lượng và cơ sở hạ tầng.
Lợi ích của Trung Quốc khi hợp tác với Iran rõ ràng hơn nhiều so với lợi ích của Tehran. Về năng lượng, Iran là một trong những nhà cung cấp dầu giá rẻ quan trọng cho Trung Quốc, đặc biệt trong bối cảnh các lệnh trừng phạt quốc tế khiến Iran buộc phải bán dầu với mức giá chiết khấu lớn. Trung Quốc cũng tận dụng Iran như một thị trường tiêu thụ hàng hóa của mình, từ điện thoại thông minh đến xe cộ và thiết bị công nghiệp, lấp đầy khoảng trống của các sản phẩm phương Tây bị thiếu hụt do trừng phạt.
Trong khi đó, Iran gần như phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc như một thị trường tiêu thụ dầu của mình, với hơn 90% lượng dầu xuất khẩu của Iran vào năm 2024 được bán cho Trung Quốc. Điều này đặt Iran vào thế bất lợi lớn, khi Trung Quốc có thể thay thế nguồn dầu từ Iran bằng các đối tác khác nếu điều kiện không thuận lợi, còn Iran thì không có nhiều lựa chọn thay thế cho Trung Quốc.
Ngoài ra, các lệnh trừng phạt khiến dòng đầu tư nước ngoài vào Iran giảm mạnh, và Trung Quốc cũng không thể lấp đầy khoảng trống mà các nhà đầu tư phương Tây để lại. Điều này càng làm trầm trọng thêm tình trạng phụ thuộc của Iran vào một nền kinh tế duy nhất và gia tăng rủi ro cho sự phát triển lâu dài.
Tóm lại, quan hệ kinh tế giữa Iran và Trung Quốc, mặc dù có ý nghĩa quan trọng đối với sự sống còn kinh tế của Iran, vẫn tồn tại nhiều bất cập. Trung Quốc giữ vai trò như một “chiếc phao cứu sinh tạm thời” cho nền kinh tế Iran, nhưng không đủ sức giải quyết những vấn đề cấu trúc và thiếu sót của nền kinh tế nước này.
Tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc
Chiều 27/6, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu Việt Nam đã về tới Hà Nội, kết thúc tốt đẹp chuyến công tác tham dự Hội nghị thường niên các nhà tiên phong lần thứ 15 của Diễn đàn Kinh tế thế giới tổ chức tại Đại Liên (Hội nghị WEF Đại Liên 2024) và làm việc tại Trung Quốc từ ngày 24 - 27/6.
Chuyến thăm đã nhận được sự quan tâm và đánh giá tích cực của các chuyên gia, học giả Trung Quốc.
Giáo sư Hứa Lợi Bình - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc trả lời phỏng vấn phóng viên TTXVN tại Bắc Kinh. Ảnh: Thành Dương/Pv TTXVN tại Trung Quốc
Trao đổi với phóng viên TTXVN tại Bắc Kinh liên quan đến chuyến làm việc tại Trung Quốc của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Giáo sư Hứa Lợi Bình - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Viện nghiên cứu chiến lược toàn cầu và châu Á - Thái Bình Dương (CASS), Viện Khoa học xã hội Trung Quốc cho rằng, việc trao đổi các chuyến thăm cấp cao, đặc biệt là trong việc phát triển quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam, đóng vai trò định hướng và dẫn dắt. Điều cốt lõi là việc trao đổi các chuyến thăm cấp cao sẽ nâng cao sự tin cậy lẫn nhau trong chiến lược của cả hai bên.
Thông qua sự tin tưởng lẫn nhau mang tính chiến lược này, hai nước có thể thúc đẩy hơn nữa hợp tác giữa Trung Quốc và Việt Nam trong các lĩnh vực như kinh tế, giao lưu nhân dân và an ninh. Vì vậy, đây là một đặc điểm rất quan trọng trong mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Giáo sư Hứa Lợi Bình nhấn mạnh, thông qua trao đổi các chuyến thăm cấp cao, ngoài việc trao đổi các chuyến thăm của các quan chức chính phủ, còn có trao đổi đoàn kênh Đảng.
Việc tăng cường sự tin cậy chính trị lẫn nhau giữa Trung Quốc và Việt Nam thông qua trao đổi về kênh đảng và quản lý nhà nước là rất quan trọng. Đặc biệt, trong chuyến thăm của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tới Việt Nam năm ngoái, các nhà lãnh đạo cấp cao hai bên đã đạt được sự đồng thuận về việc xây dựng cộng đồng chia sẻ tương lai có ý nghĩa chiến lược giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Giáo sư Hứa Lợi Bình tin rằng, thông qua trao đổi cấp cao, hai bên đặt mục tiêu thúc đẩy mối quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện hiện nay giữa Trung Quốc và Việt Nam lên một mức độ sâu sắc hơn và thực sự mang lại lợi ích cho nhân dân hai nước.
Đánh giá về việc lãnh đạo hai nước trong các cuộc gặp đều nhấn mạnh sự cần thiết phải thúc đẩy hợp tác kinh tế, trong đó có việc xây dựng các khu kinh tế xuyên biên giới và tăng cường kết nối hạ tầng giao thông, Giáo sư Lưu Anh - Viện nghiên cứu tài chính Trùng Dương, Đại học Nhân dân Trung Quốc, cho biết tăng cường xây dựng Khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới Trung Quốc - Việt Nam là ưu tiên hàng đầu. Việc tăng cường xây dựng Khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới Trung - Việt sẽ giúp hai nước tăng cường đầu tư vào khu vực hợp tác kinh tế; đồng thời nâng cao vai trò và vị thế của hai nước trong việc phát triển ổn định trong chuỗi cung ứng và chuỗi công nghiệp toàn cầu.
Giáo sư Lưu Anh đồng thời cũng cho rằng, Trung Quốc và Việt Nam cần tăng cường hợp tác kết nối giữa "Vành đai và Con đường" và "Hai hành lang, một vành đai", bao gồm việc xây dựng và kết nối cơ sở hạ tầng giao thông như đường bộ, đường sắt, cảng biển..., trong đó có việc nâng cao hiệu quả thông quan, để hàng hóa giữa Trung Quốc và Việt Nam đến thị trường của nhau nhanh chóng hơn. Với tư cách là thành viên Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), hiệu quả thông quan hàng hóa tăng lên rất nhiều, điều này có lợi cho hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư Trung Quốc-Việt Nam và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, Việt Nam và thế giới.
Về những giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Trung trong thời gian tới, Giáo sư Hứa Lợi Bình cho rằng, trong thời gian tới hai nước cần thông qua ngoại giao nguyên thủ để dẫn dắt sự phát triển quan hệ Trung Quốc - Việt Nam. Thứ hai là tăng cường hơn nữa nền tảng lợi ích giữa Trung Quốc và Việt Nam thông qua hợp tác thực tế. Thứ ba là giải quyết hiệu quả những khác biệt giữa hai bên. Cuối cùng là tăng cường giao lưu nhân dân. Hai bên cần tăng giao lưu, trao đổi trong các lĩnh vực như thanh niên, giáo dục, y tế, truyền thông, đến tăng cường giao lưu hợp tác giữa các địa phương...
Về phần mình, Giáo sư Lưu Anh cho rằng, hai bên cần tăng cường hợp tác quy hoạch chiến lược; tăng cường hợp tác kinh tế số; tăng cường hợp tác kinh tế xanh; tăng cường hợp tác chuỗi công nghiệp và chuỗi cung ứng; tăng cường hợp tác tài chính, tiền tệ; tăng cường hợp tác kinh tế và thương mại địa phương; tăng cường hợp tác giáo dục và văn hóa..., qua đó nâng cao trình độ phát triển chất lượng cao của hai nước và xây dựng cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam và Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược.
Việt Nam - đối tác thương mại lớn nhất của Quảng Tây (Trung Quốc) trong suốt 25 năm Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Quảng Tây (Trung Quốc) trong suốt 25 năm qua và việc Việt Nam cùng Trung Quốc xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai có ý nghĩa chiến lược đã trao cho Quảng Tây sứ mệnh quan trọng cũng như mang lại những cơ hội lịch sử mới cho sự mở cửa và...