Gặp thầy giáo tình nguyện lên “gieo chữ” ở nơi biên viễn
Nói về những khó khăn của giáo dục vùng biên là vô cùng. Câu chuyện thầy giáo Lê Đỗ Tuấn (SN 1983, giáo viên trường THCS Yên Khương, huyện Lang Chánh) với những năm tháng bám bản, bám lớp, vận động con em đến trường được ví như một cổ tích trong cảm mến của bà con vùng biên.
Sinh ra và lớn lên ở vùng đất thuộc xã Xuân Du, huyện Như Thanh, sau khi tốt nghiệp đại học, chàng thanh niên Lễ Đỗ Tuấn được phân công giảng dạy ở một trường miền xuôi. Tuy nhiên, với hoài bão và tình yêu thương với trẻ em vùng cao, Lê Đỗ Tuấn đã viết tâm thư xin tình nguyện lên xã vùng biên Yên Khương (huyện Lang Chánh) để công tác.
Chia sẻ về những lựa chọn của mình khi ấy, thầy Tuấn bảo đó là cái duyên. Và cái duyên đó bắt nguồn sau một chuyến đi thực tế của lớp đại học lên với trẻ em vùng cao, từ đó cho thầy những gần gũi, yêu thương.
“Cảm nhận cuộc sống của người dân vùng cao còn khó khăn, đặc biệt là trẻ, sự học vẫn chưa được các gia đình chú trọng, chính điều đó đã hun đúc quyết tâm, sự lựa chọn sau này của tôi”, thầy Lê Đỗ Tuấn chia sẻ.
Mới đầu, sự lựa chọn bị gia đình, người thân khuyên nhủ, ngăn cản. Tuy nhiên, khi phân tích ý chí, nguyện vọng bản thân mọi người chuyển sang chúc “chân cứng đá mềm”.
Năm 2006, khi mới lên với bà con vùng biên, nói về những khó khăn bấy giờ, thầy Tuấn bảo kể không xiết. Nào cách trở về ngôn ngữ, phong tục tập quán cho tới cơ sở vật chất, hạ tầng giao thông…
Thầy nhớ, để đến với trường, với bản thì dốc Bả Vai án ngữ tuyến tỉnh lộ 530 bấy giờ được xem như rào cản lớn nhất về giao thông. Lần nào cũng vậy, để về thăm gia đình rồi lại ngược lên trường, lên lớp, chiếc Drem cũ vào mùa mưa lần nào cũng phải quấn xích để ngược dốc, chốc chốc lại phải dừng xe để gảy đất quanh bánh… Qua được dốc thì người cũng ướt như chuột lột. Thầy bảo, nếu không có sức khỏe thì khó có thể chinh phục được con đường.
Ngoài khó khăn về cơ sở vật chất, đường sá, giao thông thì việc vận động học sinh đến lớp, học sinh không bỏ học khó khăn và trở ngại lớn nhất. Nói vui, nhưng thực tiễn, có những hôm thầy cô nhà trường phải lên tận rẫy “bắt” học sinh về lớp học. Giải thích cho phụ huynh thì họ không nghe, còn bảo: “Không làm lấy gì để ăn, cái chữ có làm no cái bụng không?”.
Để vận động con em tới lớp, chỉ mình thầy cô là không đủ. Nhà trường phải mời đến già làng, trưởng bản, người có uy tín vào cuộc. Nhiều nhà vì thế đã nghe theo.
Rồi những hủ tục trong dựng vợ, gả chồng, chuyện học sinh nay học mai bỏ để lấy vợ, lấy chồng là chuyện không hiếm lúc bấy giờ.
Video đang HOT
Thầy Tuấn lấy dẫn chứng từ chính học sinh của mình, đó là trường hợp em Vi Văn V – học tới lớp 9 thì bỏ, gia đình không cho đi học. Khi đó thấy Tuấn là chủ nhiệm lớp vào vận động. V bảo, bố mẹ bắt vợ cho rồi nên không học nữa, đi rẫy làm nương lo cái ăn thôi. Sau khi cán bộ thôn bản đến nhà phân tích, vận động thì gia đình mới cho V đi học trở lại. Bấy giờ V mới tâm sự là muốn đến lớp học, chơi với các bạn, chưa muốn lấy vợ.
Thầy Tuấn vui mừng khi không còn tình trạng học sinh bỏ học sớm
Còn nhiều câu chuyện mà chính bản thân thầy Lê Hữu Tuấn đến bây giờ vẫn không thể quên.
Chia sẻ thêm về đời tư, thầy Tuấn se se chiếc nhẫn cưới trên tay mở lòng: “Sau 3 năm công tác, thì cũng bén duyên với Lương Thị Huân (ở bản Chí Lý). Cưới vợ, cũng là lúc mình chấm dứt giai đoạn ở trọ để chuyển sang giai đoạn ở rể. Đến nay hai vợ chồng đã có nhà riêng, 2 mặt con”.
Thầy Hà Văn Tấn – Hiệu trưởng Trường THCS Yên Khương chia sẻ: Vượt qua không ít những khó khăn, đến nay nhờ sự quan tâm của các cấp, ngành mà ngôi trường tranh tre ngày nào nơi thầy giảng dạy đã được thế chỗ bằng ngôi trường khang trang, rộng rãi. Tình trạng học sinh bỏ học cũng không còn diễn ra. Nhiều học sinh sau khi tốt nghiệp THPT đăng ký đi xuất khẩu lao động, có thu nhập. Các gia đình đã nhận thức được vai trò của con chữ và xem nó như tiêu chí để thoát nghèo.
“Tôi đánh giá cao chuyên môn giảng dạy cũng như nhiệt huyết của thầy Tuấn. Trong suốt 15 năm gieo chữ ở ngôi trường còn nhiều khó khăn này, thầy Tuấn luôn là tấm gương sáng cho các thầy cô, học trò noi theo”, Thầy Tấn nhấn mạnh.
'Cắm bản' trên đỉnh Khâu Vai
Họ chấp nhận thiệt thòi, tình nguyện "cắm bản" ở những điểm trường xa xôi nhất, nhiều "không" nhất.
Họ kiên trì bám bản, mở "chiến dịch tìm trò" với mong muốn gieo con chữ, đổi thay tương lai cho các em nhỏ vùng cao. Đó là những thầy cô giáo trẻ ở vùng núi cao Khâu Vai (huyện Mèo Vạc, Hà Giang).
Toàn cảnh lớp học tạm tại điểm trường Ha Cá B Ảnh: Đức Văn
Ngồi học không nhìn thấy mặt nhau
Cách trung tâm huyện Mèo Vạc (tỉnh Hà Giang) chừng 20 cây số, qua những con đường quanh co vách đá thẳng đứng là đến trung tâm xã Khâu Vai - một trong những xã nghèo nhất của huyện miền núi này.
Từ trung tâm xã, chúng tôi tiếp tục vào sâu khoảng 10km, vượt qua những khúc cua tay áo, dốc đá thẳng đứng. Chiếc xe máy luôn phải cài số 1 mới có thể vượt qua để đến điểm trường Ha Cá B. Điểm trường trên núi cao, gió rít từng cơn gợi lên một cảm giác hoang vắng. Nhưng, trong không gian ấy chốc chốc lại vang lên tiếng đọc bài, tiếng nô đùa của các em học sinh lớp mầm non và tiểu học.
"Cắm bản" tại điểm trường Ha Cá B đã 7 năm nay, thầy Hoàng Đức Huy (SN 1989, quê huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang) không nhớ đã vượt bao lần ngọn núi, cánh rừng để đem con chữ đến với các em học sinh nơi đây. Thầy cho biết, con đường bê tông dẫn vào thôn chỉ mới được đầu tư xây dựng dịp Tết Nguyên đán vừa qua. Trước đó, chưa có đường, giáo viên phải thay nhau xuống núi để mua những đồ dùng thiết yếu như: gạo, cá khô, muối, lạc... vì cả tuần mới ra trung tâm xã một lần.
"Học sinh điểm trường này nhiều em áo không đủ để mặc, không có dép đi. Những bữa cơm phần lớn chỉ là mèn mén chan nước sôi. Mùa đông đến, học sinh ngồi co ro, run cầm cập, tay chân thì lạnh ngắt, môi tím bầm lại, thầy cô phải đốt thêm đống lửa gần lớp để giữ ấm".
Cô giáo Hà Thị Xuyến, giáo viên điểm trường Ha Cá B (Mèo Vạc, Hà Giang)
"Ngày thường là vậy, nhưng vào mùa mưa rất vất vả. Có lần tôi đến lớp trong bộ dạng lấm lem bùn đất vì trượt ngã. Khổ nhất là các cô, không dám đi xe máy, phải lội bùn 2-3 cây số mới đến được trường", thầy Huy cho biết.
Gửi lại con thơ cho bố mẹ chăm sóc, cô giáo Hà Thị Xuyến (24 tuổi, quê thị trấn Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang) tình nguyện chọn điểm trường xa nhất của xã Khâu Vai để công tác. "Trước đây, để đến trường phải đi bộ, xe máy không leo nổi. Những ngày đầu chưa quen, hai bàn chân sưng tím lại, chảy máu, đôi lúc tôi đã có ý định từ bỏ. Nhưng nhìn các em học sinh cũng giống như con mình, nên cố gắng bám trường, bám bản, chỉ mong các con học được cái chữ để thoát nghèo", cô Xuyến chia sẻ.
Theo cô Xuyến, điểm trường Ha Cá B có "3 không": Không điện, không nước, không internet. Những ngày nắng không sao, còn ngày trời nhiều sương mù cô trò ngồi trong lớp học nhìn chẳng rõ mặt nhau. Nguồn ánh sáng duy nhất là đèn pin hay đèn điện thoại của thầy cô chuẩn bị.
Cô giáo Hà Thị Xuyến hướng dẫn học trò tập đọc Ảnh: Đức Văn
"Học sinh điểm trường này nhiều em áo không đủ để mặc, không có dép đi. Những bữa cơm phần lớn chỉ là mèn mén chan nước sôi. Mùa đông đến, học sinh ngồi co ro, run cầm cập, tay chân thì lạnh ngắt, môi tím bầm lại, thầy cô phải đốt thêm đống lửa gần lớp để giữ ấm", cô Xuyến nói.
Thầy Huy, cô Xuyến cùng nhau vận động người dân tham gia học tiếng phổ thông; hướng dẫn các em học sinh có thói quen sinh hoạt văn minh...
Ha Cá B là điểm trường khó khăn nhất thuộc xã Khâu Vai (huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang). Do điểm trường chưa được kéo điện và xây dựng kiên cố nên học sinh phải học trong lớp ghép. Lớp học nóng bức vào mùa hè, giá lạnh vào mùa đông. Khi trời nhiều sương mù, giáo viên và học sinh ngồi trong lớp không nhìn rõ mặt nhau, nguồn sáng chủ yếu dựa vào đèn tích điện do giáo viên chuẩn bị.
Kiên trì bám lớp, tìm học sinh
Điểm trường Ha Cá B có 42 học sinh, bao gồm 22 học sinh lớp mầm non, 20 học sinh tiểu học; 100% là con em đồng bào dân tộc Mông. Tuy nhiên để duy trì đầy đủ sĩ số này, không phải điều dễ dàng.
Cứ sau một dịp nghỉ kéo dài như kỳ nghỉ hè hay nghỉ Tết Nguyên đán, thầy cô cùng chính quyền địa phương lại phải mở "chiến dịch tìm trò", băng rừng, vượt suối đến từng nhà vận động học sinh quay lại lớp. Vất vả là vậy nhưng không ít lần họ phải nhận những cái lắc đầu của cả phụ huynh và học sinh.
Thầy Huy cho biết, đa phần học sinh ở đây có hoàn cảnh gia đình khó khăn phải nghỉ học phụ giúp bố mẹ. "Khi chúng tôi đi vận động, giải thích ích lợi của việc học cho phụ huynh, không phải ai cũng nghe ngay. Có trường hợp phải thuyết phục vài ngày phụ huynh mới đồng ý cho con đến lớp. Tôi cùng đồng nghiệp phải kiên trì giải thích cho bà con về tầm quan trọng của việc học, có học mới có thể thoát nghèo", thầy Huy chia sẻ.
Vất vả hơn giáo viên dưới xuôi nhiều lần, nhưng những thầy, cô đang công tác tại các điểm trường khó khăn như Ha Cá B gần như không biết đến không khí ngày lễ 20/11, hiếm khi được nhận một bông hoa hay lời chúc ý nghĩa từ học trò hay phụ huynh. Với họ, niềm vui chính là được nhìn thấy học sinh đến lớp đông đủ, được nghe thấy tiếng nô đùa, đọc chữ của lũ trẻ.
"Thầy Vỹ khùng" 20 năm miệt mài cõng chữ lên non Tôi muốn xóa sổ tất cả điểm trường tạm, tôi đã hứa với các thầy cô sẽ cố gắng giúp đỡ, cải thiện điều kiện học tập của các em. Tình yêu thương cảm hóa người thầy Tháng 10, tháng 11 vừa qua, vùng đất Nam Trà My (tỉnh Quảng Nam) phải gồng mình vật lộn để vượt qua những tang thương từ...