Gánh nặng nợ công “đè” tăng trưởng kinh tế
Nợ công tăng quá cao có thể sẽ tác động tới tăng trưởng kinh tế. Nếu không kiểm soát vay nợ, Việt Nam sẽ lún sâu vào nợ nần trước khi kịp cất cánh.
Như đã đề cập ở bài trước, mặc dù nợ công vẫn ở ngưỡng an toàn, tỷ lệ nợ công/GDP còn giảm so với thời gian trước nhưng nợ nước ngoài của quốc gia lại tăng, nghĩa vụ trả nợ cũng đã vượt giới hạn cho phép. Thực trạng này đang khiến cho nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với nhiều rủi ro lớn.
Nặng gánh nợ
PGS. TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) cho rằng, ngân sách liên tục thâm hụt và tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài qua các năm và tỷ lệ thu ngân sách so với GDP đã ở mức rất cao (năm 2015 bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) bằng 6,28% GDP thực tế; năm 2016 là 4,95% GDP; năm 2017 là 3,48% GDP). Để bù đắp cho thâm hụt ngân sách và để có nguồn chi cho đầu tư phát triển, Việt Nam phải vay nợ ngày càng nhiều, khiến khối nợ công ngày càng phình to.
Nợ công tăng quá cao có thể sẽ tác động tới tăng trưởng kinh tế (Ảnh minh họa: KT)
“Mức nợ công của Việt Nam cao nhất trong các quốc gia trong khu vực và cùng trình độ phát triển. Đây là thực tế đáng lo ngại với một quốc gia chưa giàu đã mang gánh nặng nợ lớn”, PGS Nguyễn Đức Thành cảnh báo.
Theo ông Thành, với một nước đang phát triển, vay nợ là công cụ cần thiết để tài trợ vốn, đáp ứng nhu cầu đầu tư và khuyến khích sản xuất khi mức tích lũy của nền kinh tế còn thấp. Tuy nhiên, nếu nợ công tăng lên ở mức quá cao thì tác động tới nền kinh tế có thể bị đảo ngược. Nếu không có những biện pháp kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn vay, mức trần nợ công rất dễ bị phá vỡ trong thời gian tới.
“Trong bối cảnh Việt Nam đã tốt nghiệp vay vốn ODA, nếu lạm dụng vay nợ thì gánh nặng nợ trong tương lai là rất lớn. Nếu không kiểm soát vay nợ, Việt Nam sẽ lún sâu vào nợ nần trước khi kịp cất cánh”, PGS Nguyễn Đức Thành nhấn mạnh.
Nhiều rủi ro tiềm ẩn
Video đang HOT
Mức nợ công của Việt Nam vài năm gần đây đã vượt qua mức 60%GDP và theo nhiều nghiên cứu, nợ công của Việt Nam đã bắt đầu tác động tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế. Bởi nợ công tăng là gia tăng áp lực trả nợ. Nhất là gần đây Việt Nam đã tốt nghiệp ODA, các khoản vay thương mại nhiều lên, vay ưu đãi hầu như không còn và Việt Nam cũng giống như các quốc gia phát triển khác phải vay nợ nước ngoài bằng những ngoại tệ mạnh.
PGS. TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (Ảnh: KT)
PGS Nguyễn Đức Thành cho rằng, áp lực trả nợ ngày càng lớn làm cho tiết kiệm quốc gia giảm, kéo theo sự suy giảm của đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Đáng chú ý, gần đây, để chủ động hơn với nợ công, giảm bớt mức độ ảnh hưởng từ nợ nước ngoài, Chính phủ đã tăng tỷ trọng vay trong nước. Như vậy, nợ công làm giảm tích lũy vốn tư nhân. Nguồn cung vốn trên thị trường vốn tư nhân giảm dẫn tới lãi suất tăng, đẩy chi phí đầu tư tăng và dẫn tới đầu tư tư nhân giảm.
“Tỷ trọng của chi đầu tư phát triển năm 2016 chỉ còn xấp xỉ 5% GDP, giảm một nửa so với 10% GDP của năm 2009. Chi cho đầu tư phát triển giảm một phần do thực hiện tái cơ cấu đầu tư công, đẩy mạnh xã hội hóa hạ tầng. Nhưng chi thường xuyên vẫn không có dấu hiệu suy giảm, dẫn tới nguồn lực dành cho chi đầu tư phát triển bị hạn chế, thậm chí có xu hướng giảm dần tính theo % GDP sẽ làm cho tăng trưởng kinh tế giảm. Tăng trưởng kinh tế giảm thì lại tác động trở lại làm giảm nguồn thu ở vòng sau”, PGS Nguyễn Đức Thành phân tích.
Còn theo PGS. TS. Vũ Sỹ Cường, Học viện Tài chính, nếu bội chi ngân sách và mức bảo lãnh của Chính phủ vẫn được duy trì như hiện nay thì tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam vẫn có nguy cơ tăng vượt trần trong những năm tới, kể cả khi tăng trưởng GDP có được duy trì ở mức cao và chi phí huy động vẫn còn tương đối thuận lợi như hiện nay. Nguyên nhân là do dư địa ngân sách đang ngày càng trở nên mỏng, khiến cho nợ công có thể trở nên mất bền vững ngay kể cả khi có những cú sốc nhẹ.
Theo ông Cường, nghĩa vụ nợ dự phòng, đặt biệt là nghĩa vụ nợ dự phòng tiềm ẩn có thể làm cho Việt Nam càng thêm dễ tổn thương với lộ trình nợ như hiện nay, ngay cả khi cân đối ngân sách cơ bản của Việt Nam vẫn được quản lý cẩn trọng.
“Mức nợ chính phủ của Việt Nam cao hơn khá nhiều quy mô trung bình của các nước đang phát triển thu nhập thấp và các nước châu Á; quy mô so với GDP hầu như không thay đổi cho dự báo đến năm 2023. Điều này sẽ là áp lực không nhỏ về trả nợ và không gian cho chính sách tài khóa”, PGS Vũ Sỹ Cường cảnh báo./.
Cẩm Tú/VOV.VN
WB nâng tăng trưởng GDP Việt Nam lên 6,8% trong năm 2018
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đạt được kết quả tốt nhờ kinh tế toàn cầu khôi phục bền vững và những cải cách trong nước đang được thực hiện. Tăng trưởng cao dẫn đến tạo việc làm và tăng thu nhập, đem lại những thành quả chung về phúc lợi và giảm nghèo. Nhưng, bên cạnh triển vọng cải thiện trước mắt vẫn tồn tại những rủi ro trong, ngoài nước và những thức dài hạn.
Triển vọng trong trung hạn của Việt Nam tiếp tục được cải thiện đó là quan điểm được nhấn mạnh tại buổi trình bày báo cáo "Chèo lái qua Bất định", ấn bản tháng 10/2018 của Báo cáo Cập Nhật Kinh tế Khu vực Đông Á và Thái Dương của WB.
Theo WB, tăng trưởng GDP dự báo sẽ đạt khoảng 6,8% trong năm 2018 (so với 6,5% trong dự báo hồi tháng 4/2018) trước khi chững lại ở mức 6,6% năm 2019 và 6,5% năm 2020 do sức cầu trên toàn cầu dự kiến chững lại theo chu kỳ.
Mặc dù nền kinh tế có khởi sắc hơn, nhưng dự kiến lạm phát vẫn xoay quanh chỉ tiêu 4% của Chính phủ. Về kinh tế đối ngoại, cân đối tài khoản vãng lai ước tính sẽ tiếp tục thặng dư trong ngắn hạn, nhưng mức độ thặng dư sẽ giảm dần từ năm 2019 do thâm hụt tăng lên ở tài khoản thu nhập và dịch vụ. Tình hình ngân sách được củng cố dự kiến sẽ kiềm chế được nợ công trong kỳ dự báo.
Trước những câu hỏi băn khoăn về việc WB nâng dự báo tăng trưởng dù những quý gần đây giảm, ngoại trừ quý I tăng mạnh, ông Sudhir Shetty, Chuyên gia Kinh tế Trưởng của WB, phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương cho biết: "Điểm cần lưu ý đó là kịch bản cơ sở dự báo Việt Nam tiếp tục tiến triển như những tháng qua nên tăng trưởng kinh tế Việt Nam ở con số 6,8% trong năm.
Hay có thể hiểu là còn một biên độ dự báo và có dữ liệu để nhận định nền kinh tế Việt Nam có thể đạt được con số 6,8% nhưng không có nghĩa tăng trưởng kinh tế tiếp tục tăng trưởng trong các năm tới".
Cho dù triển vọng trước mắt được cải thiện, nhưng WB cho rằng, rủi ro vẫn ở mức cao. Nhìn từ trong nước, tiến trình tái cơ cấu khu vực ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước chậm lại có thể tác động bất lợi đến tình hình tài chính vĩ mô, làm suy giảm triển vọng tăng trưởng và tạo ra nghĩa vụ lớn cho khu vực nhà nước.
Những rủi ro bên ngoài bao gồm chủ nghĩa bảo hộ leo thang, bất định địa chính trị trong khu vực và trên toàn cầu tăng lên, các điều kiện huy động vốn trên toàn cầu tiếp tục được thắt chặt có thể dẫn đến những biến động gây xáo trộn trên thị trường tài chính.
"Việt Nam phải duy trì kinh tế vĩ mô, tiếp tục theo dõi tình hình nợ công, đây là điểm rất quan trọng bởi vẫn còn có những rủi ro, xáo trộn về chính trị trên thế giới. Bên cạnh đó là câu chuyện lạm phát đang tăng lên là những vẫn đề trong trung hạn cần quan tâm. Việt Nam cần tiếp tục duy trì mở cửa thương mại và đầu tư", ông Sudhir Shetty nói.
Theo WB, các nhà hoạch định chính sách cần tận dụng môi trường kinh tế thuận lợi để đẩy mạnh những chính sách làm tăng khả năng chống chịu về kinh tế vĩ mô và tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững trong tương lai.
Cụ thể, đối với chính sách tiền tệ cần điều chỉnh lượng thanh khoản trong khu vực ngân hàng sao cho lãi suất liên ngân hàng gắn với lãi suất chính sách và đưa tăng trưởng tín dụng về mức phù hợp với các yếu tố căn bản.
Nỗ lực trên có thể được bổ trợ bằng các biện pháp cẩn trọng vĩ mô nhằm ngăn ngừa tình trạng dành tín dụng quá mức cho các lĩnh vực rủi ro cao như bất động sản hoặc tiêu dùng cá nhân.
Nền kinh tế Việt Nam có thể đạt được con số 6,8% nhưng không có nghĩa tăng trưởng kinh tế tiếp tục tăng trưởng trong các năm tới.
- Ông Sudhir Shetty, Chuyên gia Kinh tế Trưởng của WB, phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương
Hơn nữa, các bước nhằm tăng cường giám sát khu vực ngân hàng, xử lý nợ xấu, củng cố tỷ lệ an toàn vốn sẽ không chỉ giảm rủi ro về ổn định tài chính mà còn đem lại những cải thiện về trung gian tài chính, góp phần nâng cao tăng trưởng trong trung hạn. Tỷ giá hối đoái nếu được quản lý chủ động và linh hoạt hơn có thể giúp giảm thiểu rủi ro do những biến động kinh tế từ bên ngoài.
Về chính sách tài khóa, WB cho rằng, mục tiêu tiếp tục giảm bội chi đòi hỏi phải có một chiến lược tổng thể nhằm nâng cao hiệu suất chi tiêu và duy trì bền vững tiềm năng thu trong trung hạn.
Bên cạnh chính sách kinh tế vĩ mô cần tiếp tục chú trọng cải cách cơ cấu sâu rộng, bao gồm cả những cải cách pháp quy nhằm xóa bỏ rào cản và giảm chi phí hoạt động của khu vực tư nhân, đầu tư cho nguồn nhân lực và hạ tầng chất lượng cao, tiếp tục cải cách nhằm nâng cao năng suất trong khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Một số địa phương vừa phải hứng chịu thiên tai bão lũ trong thời gian qua, vì vậy, đầu tư cho các biện pháp giảm thiểu biến đổi khí hậu vẫn là ưu tiên để phòng ngừa tình trạng dễ tổn thương cho các hộ gia đình ở Việt Nam trước các cú sốc thiên tai.
"Trong bối cảnh rủi ro tăng lên, các nền kinh tế đang phát triển ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương cần vận dụng đầy đủ các chính sách tái cơ cấu cẩn trọng kinh tế vĩ mô sẵn có để bình ổn các cú sốc bên ngoài và nâng cao tốc độ tăng trưởng tiềm năng", ông Sudhir Shetty nói.
Nhuệ Mẫn
Theo tinnhanhchungkhoan.vn
Dow Jones tiếp tục lập kỷ lục mới Tâm lý thị trường trở nên ổn định hơn khi mà Italy khẳng định sẵn sàng giảm mức thâm hụt ngân sách và nợ trong thời gian tới, điều này khiến thị trường bớt lo lắng về mức nợ công cao của Italy. Ảnh: GettyImages Phiên giao dịch ngày thứ Tư, chỉ số công nghiệp Dow Jones tăng lên mức cao nhất mọi...