Đường đến lớp gay cấn như phim hành động của cô giáo vùng cao!
Nhiêu lân cô Diêm ngồi trên đo để lên dạy ở điểm trường Nước Bao trong mùa lũ mà khóc tu tu như 1 đứa trẻ vì đo đi đến đoạn dòng nước xiết.
Cô Vũ Thị Hồng Diễm la giao viên day âm nhac, trường Tiêu hoc Sơn Bao (nay là trường Tiểu học và Trung hoc Cơ sơ Sơn Bao) thuộc xã Sơn Bao, huyện Sơn Hà, tinh Quang Ngai. Cô la giao viên đươc vinh dư tham gia chương trinh chia se cung thây cô năm 2019.
Trương nơi cô Diêm day hoc năm ơ một xã đặc biệt khó khăn của huyện Sơn Ha, lai co nhiêu điêm trương. Co đên nơi đây mơi thây đươc sự thiếu thốn vất vả, đường sá đi lại khó khăn, ngăn sông cách chợ và đặc biệt là ở một số điểm trường lẻ phải qua sông suối bằng bè, đo, có những điểm trường nằm trơ trọi một mình trên quả đồi cao.
Đặc thù bộ môn Âm nhạc, mỗi lớp học 1 tiết/ tuần nên cô được phân công đi các điểm lẻ để dạy học.
Mua mưa, con đương đên trương cua cô Diêm va hoc tro phai vươt qua dong nươc xiêt (anh do nhân vât cung câp).
Nhận nhiệm vụ, cô Diêm đa không ngại khó để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình nhưng cũng có lúc co cam thây nản chí vì đường sá đi lại quá khó khăn đặc biệt là vào mùa mưa và đối với cô gái chân yếu tay mềm như cô.
Tâm sư, cô Hông Diêm kê, đã bao lần cô bị ngã xe trầy xước hết cả chân tay vì đi trên dốc núi trơn trượt ở điểm trường Mang Nà.
Đa bao lần phải đi lên xã Sơn Thượng rồi vòng xuống để đến điểm trường Nước Rinh vì trễ đò.
Hay nhưng luc cô Diêm ngồi trên đo để lên dạy ở điểm trường Nước Bao trong mùa lũ mà khóc tu tu như 1 đứa trẻ con vì đo đi đến đoạn dòng nước xiết của sông Tang và sông Rin hợp lại…
Điêu kiên khăc nghiêt la vây, vi tinh yêu những tre, cai nghiêp lam cô giao nên cô Diêm đa động viên mình cố gắng hơn nữa để truyền đạt thật nhiều kiến thức cho các em, giúp hoc tro có một cuộc sống tươi đẹp hơn, thoát khỏi sự nghèo khó nơi đây.
Cô Diêm tâm sư, cô yêu sư thơ ngây, chân thât cua hoc tro vung nui (anh do nhân vât cung câp).
Môt trong nhưng ky niêm ma cô Hông Diêm nhơ nhât trong hanh trinh đi day hoc cua minh đa la lân cheo đo trong dong nươc xiêt.
Cô Diêm kê lai: “Chắc chắn suốt cuộc đời tôi sẽ không bao giờ quên được, đó là khi được phân công dạy Âm nhạc ở điểm trường Nước Rinh, điểm trường này đi lại rất khó khăn và phụ thuộc vào bác lái đò.
Vì bác còn phải đi nương rẫy đôi lúc không mang theo điện thoại, đoạn đường này cũng ít người qua lại.
Hôm đó tôi cùng cô Huệ – cô giáo dạy Mỹ thuật có tiết dạy nhưng về bị trễ đò, chúng tôi chờ hơn 2 tiếng đồng hồ, vừa mệt vừa đói.
Không liên lac đươc vơi bac cheo đo, hai chúng tôi quyết định tự kéo bè qua sông,.
Tuy nhiên, khi ra đến giữa dòng nước chảy xiết cộng thêm cái đói khiên chúng tôi không còn sức lực nữa.
Hai chị em nhìn nhau và khóc, trong giây phút đó tôi nói: “Hay là mình buông tay đi, để bè tự trôi rồi gọi điện nhờ các thầy cùng người dân bơi ra lôi bè vào bờ giúp “.
Luc đo, cô Huệ cũng sợ và hoang mang lắm nhưng cô vẫn động viên tôi cố gắng kéo thêm tí nữa, thế là chúng tôi gạt nước mắt lại tiếp tục kéo bè vào bờ”.
Video đang HOT
Ngoài công tác chuyên môn, cô Diêm còn được Chi đoàn tín nhiệm bầu làm Bí thư Chi Đoàn, nhiều năm tham gia vào các hoạt động, phong trào của Đoàn trường, Đoàn xã và Huyện Đoàn phát động.
Cô Diêm thường xuyên tham gia công tác thiện nguyện với tất cả nhiệt huyết của tuổi trẻ.
Với tư tưởng sống là sẻ chia với cộng đồng, nên dù với đồng lương giáo viên ít ỏi cô Diêm vẫn góp 1 phần nhỏ của mình để giúp đỡ những hoàn cảnh kém may mắn hơn mình, tham gia giúp đỡ gia đình người có công với cách mạng tại địa phương.
Cô Tâm sư, cô đa có gia đình, chồng và con gái nhỏ đều ở đồng bằng. Cô la cô giáo vùng cao, đều đặn 4h sáng thứ Hai hàng tuần cô lai chuẩn bị hành trang đến trường.
“Mỗi lần vào nhìn con gái nhỏ đang ngủ say lòng tôi lại buồn vô hạn, nước mắt lại trào ra.
Nhiều lúc thấy tôi vất vả gia đình lại khuyên tôi xin thuyên chuyển công tác nhưng có lẽ tình yêu tôi dành cho các em học sinh và mảnh đất Sơn Bao quá lớn nên tôi vẫn muốn tiếp tục gắn bó với nơi này” – cô Diêm chia se.
Găn bo vơi miên nui, tuy vât va nhưng tinh cam cua cô tro lai hôn nhiên, chân thanh (anh do nhân vât cung câp).
Hơn năm năm ở với núi rừng, cô đa hiểu đất, người ở đây như hiểu lòng mình. Cũng bởi hiểu nên thương rồi không nỡ rời xa. Hơn năm năm không phải là khoảng thời gian quá dài nhưng với cô Diêm đấy là cả một thời thanh xuân gác sang bên những yêu thương, khát khao của tuổi trẻ.
Ngần ấy năm rồi nhưng những đêm mưa, nỗi buồn, sự cồn cào vẫn mới nguyên như ngày đầu.
Niềm vui của cô Diêm là được nhìn những nụ cười hồn nhiên đến ngây ngô, tình cảm chân thành của đám học trò nghèo mỗi buổi trên lớp.
Điều này đã trở thành nguồn động viên lớn, giúp cô đủ nghị lực không bỏ núi về đồng bằng. Có lẽ đấy cũng là cái được của một giáo viên miền núi như cô chăng?
Trinh Phuc
Theo giaoduc.net
Đừng bắt giáo viên vùng cao phải thi chứng chỉ tiếng Anh rồi bỏ xó
Trong khi chứng chỉ ngoại ngữ học xong, thi xong rồi "bỏ xó" thì giáo viên vùng cao lại cần chứng chỉ tiếng H'Mông hơn cho công việc giảng dạy.
Đều đều các buổi tối thứ 2, 4, 6 trong tuần, giáo viên trường Tiểu học Nậm Lư (Mường Khương) lại cùng nhau xuống thị trấn tham gia các lớp học tiếng H'Mông phục vụ công tác giảng dạy.
Thầy Phạm Văn Toàn, người tự nhận có 2 "ngoại ngữ" (tiếng H'Mông và tiếng Anh) hóm hỉnh:
"Giáo viên chúng tôi hay đùa nhau ai cũng có 2 - 3 ngoại ngữ.
Bên cạnh tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung...giáo viên ở đây đều biết tiếng H'Mông, tiếng người Nùng, người Dao...
Việc học ngôn ngữ của bà con dân tộc thiểu số giúp ích rất nhiều cho công tác giảng dạy.
Bởi học sinh xuống đây hầu hết đều nói tiếng dân tộc của các em.
Giáo viên muốn giao tiếp được với học sinh không còn cách nào khác là phải học thêm tiếng đồng bào dân tộc.
Sau khi mình biết ngôn ngữ của các em thì việc uốn nắn và bảo ban các em mới hiệu quả hơn".
Khi được hỏi, thầy dùng tiếng Anh nhiều hơn hay tiếng H'Mông nhiều hơn?, thầy Toàn cười:
"Tất nhiên ở đây giáo viên dùng tiếng H'Mông nhiều hơn. Sử dụng tiếng Anh thì biết nói với ai?
Các em học sinh ở trường để dạy các em nói được tiếng phổ thông, học được chữ quốc ngữ là khó lắm rồi. Việc giao tiếp hay nói chuyện bằng tiếng Anh gần như là không thể.
Giáo viên ở đây không có môi trường để nói ngoại ngữ như ở dưới miền xuôi".
Vùng cao thiếu môi trường để giao tiếp và rèn luyện tiếng Anh cho nên chứng chỉ ngoại ngữ liệu có cần thiết (Ảnh:V.N)
Chính vì lý do như vậy, thầy Toàn đánh giá: Chứng chỉ tiếng H'Mông quan trọng hơn nhiều so với chứng chỉ tiếng Anh. Chứng chỉ tiếng Anh chúng tôi học và thi cho đủ hồ sơ, sau lại "bỏ xó".
Cô giáo Nguyễn Thị Hoan, cũng vừa hoàn thành xong lớp học tiếng H'Mông và nhận chứng chỉ tiếng H'Mông.
Mặc dù cô Hoan dạy tiếng Anh ở trường nhưng vẫn học thêm ngôn ngữ của một số đồng bào dân tộc thiểu số để phục vụ công tác giảng dạy.
Cô tâm sự: "Không chỉ riêng tôi mà tất cả giáo viên ở vùng cao hầu hết đều phải học thêm ngôn ngữ của đồng bào dân tộc.
Mặc dù tôi dạy tiếng Anh nhưng thi thoảng vẫn phải dùng tiếng H'Mông để nói chuyện với các em. Học tiếng Anh trên đây rất khó áp dụng vì thiếu môi trường để mình thực hành.
Học sinh hoặc đồng nghiệp chỉ thường nói chuyện với nhau bằng tiếng phổ thông hoặc tiếng dân tộc chứ mấy khi nói chuyện hoặc giao tiếp bằng tiếng Anh. Nên tôi nói chuyện bằng tiếng Anh một mình có khi người ta lại bảo dở hơi".
Ở vùng cao việc biết tiếng H'Mông còn quan trọng hơn tiếng Anh trong việc giảng dạy (Ảnh:Đức Minh)
Câu chuyện về quy định chứng chỉ tiếng Anh, tin học không phải là một câu chuyện mới.
Tuy nhiên những người hiểu rõ nhất tính hình thức của quy định trên chính là những giáo viên vùng cao.
Làm công tác hiệu trưởng đã hơn 20 năm, cô N.T.H vẫn đánh giá: "Việc yêu cầu chứng chỉ tiếng Anh, tin học giáo viên vẫn nặng tính hình thức.
Cô H. nói: "Tôi tâm sự thật lòng dưới tư cách người làm quản lý, giáo viên của chúng tôi ở trên đây chẳng có ai dùng tiếng Anh đi dạy hoặc giao tiếp. Vì lấy ai để giao tiếp, lấy ai để dạy.
Đối với các cháu người dân tộc thiểu số hầu hết các em chỉ giao tiếp bằng ngôn ngữ dân tộc mình.
Những giáo viên của trường phải mất cả năm trời mới giúp các em có thể đọc thông, viết thạo tiếng phổ thông.
Cho nên để học sinh nói được tiếng phổ thông, học được chữ Quốc ngữ là vượt quá mong đợi của chúng tôi rồi.
Thêm nữa có nhiều môn học không sử dụng tiếng Anh nhưng vẫn yêu cầu phải có chứng chỉ ngoại ngữ chẳng hạn như môn ngữ văn, môn lịch sử...
Trong các giờ học ngữ văn, giáo viên thường lồng ghép những nét văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc cho học sinh nghe và hiểu chứ ai đi nói tiếng Anh làm gì".
Cũng theo cô H. quy định về chứng chỉ ngoại ngữ, tin học "làm khổ" giáo viên vùng cao:
"Chúng tôi muốn học và thi chứng chỉ là phải về tận thành phố Lào Cai cách đây 70 km. Học xong rồi thi và lấy chứng chỉ.
Thứ nhất là mất thời gian vì thời gian học cũng khá lâu lại xa nơi mình dạy học, nơi mình ở, giáo viên phải đi đi về về.
Thứ hai, học xong chỉ để đấy cho đẹp hồ sơ cũng không áp dụng gì được ở đây.
Thứ ba, tốn kém tiền bạc cho giáo viên trong khi mức lương của giáo viên vùng cao vốn đã thấp lại phải bỏ một số tiền đi học chứng chỉ xong về để đấy".
Nhiều quy định đang xa rời thực tế, có tính chất cào bằng (Ảnh:V.N)
Do vậy cô H. mong muốn: "Chúng tôi mong có những điều chỉnh phù hợp với điều kiện từng vùng. Bởi giữa vùng đồng bằng và vùng cao điều kiện kinh tế, xã hội là khác nhau.
Cho nên những tiêu chuẩn cào bằng như thế này rất khập khiễng. Giáo viên dưới xuôi có điều kiện để học và giao tiếp, giảng dạy tiếng Anh chứ trên đây toàn rừng núi, học sinh hầu hết đồng bào dân tộc thiểu số thì giáo viên nói tiếng Anh với ai mà cần chứng chỉ".
Tiếng lòng của một số giáo viên vùng cao đã chỉ ra được một bất cập trong các quy định, tiêu chuẩn trước đây.
Bất cập đó đến từ sự cào bằng mà không căn cứ theo điều kiện của từng vùng, từng miền.
Giáo sư Phạm Tất Dong cho rằng: "Cũng giống như việc triển khai thi trên máy tính, quy định về chứng chỉ ngoại ngữ, tin học cần phải căn cứ điều kiện thực tế của từng vùng, từng địa phương.
Không thể lấy vùng A để áp đặt cho vùng B bởi bản chất 2 vùng là khác nhau. Đối với giáo viên và học sinh vùng cao cần có những chính sách khác biệt và phù hợp chứ không thể căn cứ những quy định chung chung được".
Sau 26 năm tồn tại, chứng chỉ ngoại ngữ trình độ A, B, C chính thức bị xóa sổ bằng việc dừng kiểm tra và cấp chứng chỉ từ ngày 15/1/2020. (Ảnh minh họa trên giaoduc.net.vn)
Mới đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư 20/2019/TT-BGDĐT bãi bỏ các quy định về kiểm tra và cấp chứng chỉ ngoại ngữ theo chương trình giáo dục thường xuyên tại Quyết định 30/2008/QĐ-BGDĐT.
Theo đó, bãi bỏ các quy định về kiểm tra và cấp chứng chỉ ngoại ngữ theo chương trình giáo dục thường xuyên (Chương 3 Quy định về tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, kiểm tra và cấp chứng chỉ ngoại ngữ, tin học theo chương trình giáo dục thường xuyên kèm theo Quyết định 30/2008/QĐ-BGDĐT ngày 6/6/2008).
Tuy nhiên giáo viên vùng cao vẫn mong muốn có những chính sách thực tế hơn căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội từng vùng vì hiện nay chứng chỉ tiếng H'Mông còn quan trọng hơn chứng chỉ ngoại ngữ.
Vũ Ninh
Theo giaoduc.net
Ở nơi rừng thẳm, các cô giáo góp tiền nuôi học sinh đến trường Sau giờ họp, cô thì 50 ngàn, cô thì 100 ngàn... mỗi cô một chút, một ít góp tiền mua gạo, thức ăn nuôi học sinh ở điểm trường Nậm Chua Cách trường Mầm non Chà Tở (xã Chà Tở, Nậm Pồ, Điện Biên) 32 km, điểm trường Nậm Chua nằm sâu trong nhóm dân cư giữa rừng thẳm. Nói về điểm trường...