Đừng hiểu lầm bơm tiền sẽ lạm phát
Nền kinh tế thế giới đang chịu những tác động nặng nề bởi dịch Covid-19 gây ra, nên nhiều quốc gia đồng loạt bơm tiền nhằm hỗ trợ kinh tế nội địa.
Tiền không được tạo ra từ ngân hàng trung ương
Không ít ý kiến cho rằng, ngân hàng trung ương bơm tiền ra nền kinh tế sẽ gây ra lạm phát lớn sau này, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân.
Thực tế, bơm tiền không đồng nghĩa với lạm phát trong tương lai.
Lạm phát là sự mất giá của đồng tiền, kết quả của sự chênh lệch giữa hàng hóa và cung tiền trong nền kinh tế. Khi tiền quá nhiều trong khi hàng quá ít thì sẽ khó tránh khỏi sự khan hiếm của hàng hóa, khiến giá cả tăng nhanh, từ đó gây ra lạm phát.
Nhưng tại sao việc ngân hàng trung ương bơm tiền lại chưa chắc đã gây ra lạm phát? Câu hỏi này sẽ được trả lời khi chúng ta mổ xẻ nguồn gốc của cung tiền.
Tiền không được tạo ra từ ngân hàng trung ương, mà được tạo ra bởi các khoản vay. Dưới đây là một ví dụ đơn giản:
An gửi 1 tỷ đồng vào Ngân hàng Á Châu. Ngân hàng được phép cho vay 90% tiền gửi của mình (10% là dự trữ bắt buộc mà ngân hàng trung ương yêu cầu các tổ chức tín dụng phải giữ lại). Bình vay 900 triệu đồng từ Á Châu và mua một món hàng từ Hoa.
Sau đó, Hoa gửi 900 triệu đồng vào tài khoản của mình tại Ngân hàng BIDV. Và rồi BIDV cho một người nào đó vay 810 triệu đồng (10% giữ lại tại két của ngân hàng trung ương), người này sau đó chi tiêu số tiền vay.
Như vậy, chỉ có 1 tỷ đồng dự trữ trong hệ thống ngân hàng, nhưng An và Hoa có tổng cộng 1,9 tỷ đồng trong tài khoản ngân hàng.
Kế toán của các ngân hàng xác nhận điều đó. Cung tiền trong trường hợp này là 1,9 đồng, mặc dù số tiền thật chỉ là 1 tỷ đồng.
Nếu quá trình đó diễn ra liên tục cho đến khi khả năng cho vay của ngân hàng còn 0 đồng (bởi dự trữ bắt buộc lấy dần) thì 1 tỷ đồng tiền gửi ban đầu sẽ tạo ra 9 tỷ đồng cung tiền. Trường hợp ngân hàng trung ương hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống thấp hơn 10% thì con số cung tiền sẽ lớn hơn nhiều.
ó là quy trình hoạt động tiêu chuẩn của tất cả các hệ thống ngân hàng trên thế giới và là một công cụ hiệu quả và mạnh mẽ để tạo ra lợi nhuận và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Lượng tiền bơm ra sẽ được “thổi phồng”
Video đang HOT
Khi kinh tế gặp cú sốc, nhiều người ồ ạt rút tiền cùng một lúc (hiện tương này gọi là “bank run”), các ngân hàng sẽ không đủ tiền để cung cấp, vì họ chỉ có 1 tỷ đồng dự trữ ban đầu tại ngân hàng trung ương (theo ví dụ trên).
Lúc này, ngân hàng trung ương sẽ phải thực hiện nhiệm vụ quan trọng nhất của mình: “Người cho vay cuối cùng”.
Ngân hàng trung ương sẽ bơm tiền vào hệ thống ngân hàng để các ngân hàng đáp ứng nhu cầu rút vốn của khách hàng.
Lạm phát lõi của Mỹ luôn duy trì dưới mức 2,5%.Nguồn: tradingeconomics.com.
Lạm phát của Nhật có cú “giật” lên 4% năm 2014 sau đó lùi về mốc 1%.Nguồn: tradingeconomics.com.
ây chính là cách mà Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và các ngân hàng trung ương lớn khác đang làm ở thời điểm hiện tại. Việt Nam chưa phải thực hiện biện pháp mạnh tay này, bởi thanh khoản hệ thống vẫn tương đối dồi dào, thậm chí có những giai đoạn hệ thống dư thừa tiền, Ngân hàng Nhà nước phải rút ròng hàng chục nghìn tỷ đồng (chẳng hạn, trong tháng 12/2019, Ngân hàng Nhà nước thực hiện hút ròng 46.400 tỷ đồng ra khỏi hệ thống ngân hàng thông qua kênh repo).
Liệu các ngân hàng có lấy tiền của ngân hàng trung ương cung cấp để mang đi cho vay? Dĩ nhiên là có, bởi về bản chất, khoản vốn này cũng giống như huy động từ dân cư.
Họ sẽ mang tiền này cho người A vay, người A mua hàng hóa người B, người B gửi ngân hàng, ngân hàng cho người C vay…
Nếu vòng quay này lặp đi lặp lại, lượng tiền ngân hàng trung ương bơm ra được “thổi phồng” thành một lượng cung tiền khổng lồ, hệ quả tất yếu là tiền nhiều hơn hàng và gây ra lạm phát.
Lưu ý, sự thổi phồng từ lượng tiền gửi 1 tỷ đồng ban đầu lên 9 tỷ đồng phụ thuộc vào 3 yếu tố. Thứ nhất là tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà ngân hàng trung ương công bố. Thứ hai là tỷ lệ dự trữ vượt mức mà các ngân hàng để lại tại ngân hàng trung ương.
Thứ ba là sở thích nắm giữ tiền mặt của người dân. Theo đó, tốc độ thổi phồng lượng tiền trong nền kinh tế sẽ bị tác động một phần bởi ý chí của ngân hàng trung ương, ý chí của các ngân hàng thương mại và cuối cùng chính là ý chí của người dân.
Nhiều nước đang suy kiệt tín dụng
Với tình hình kinh tế hiện tại, chúng ta không khó để thấy rằng, hầu hết các quốc gia đang trong tình trạng suy kiệt tín dụng, tức là các ngân hàng thương mại không muốn cho vay, họ giữ tiền trong két của mình, một phần để dự phòng rủi ro, một phần vì không còn tin tưởng các đơn vị vay vốn.
Tiền lúc này kẹt trong hệ thống nên không thể tăng cung tiền và dĩ nhiên không có lạm phát.
Còn đối với người dân, trong bối cảnh dịch Covid-19 tác động mạnh mẽ, không ít người muốn nắm giữ tiền mặt hoặc tài sản trú ẩn như vàng, ngoại tệ mạnh… Tiền không chảy vào hệ thống ngân hàng mà nằm trong dân, nên một lần nữa, cung tiền bị suy giảm và không thể có lạm phát.
Nhưng khi kinh tế phục hồi, các ngân hàng sẵn sàng cho vay, tín dụng được lưu thông, lạm phát có quay trở lại? Dĩ nhiên là có, nếu ngân hàng trung ương không can thiệp, nhưng thực tế họ sẽ can thiệp và có đầy đủ các công cụ để can thiệp.
Công cụ đầu tiên là tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi vượt mức của các ngân hàng thương mại tại ngân hàng trung ương.
Lãi suất này nếu đủ hấp dẫn thì các ngân hàng thương mại sẽ gửi tiền tại ngân hàng trung ương, thay vì đưa ra nền kinh tế, cung tiền lúc này bị co lại.
ây chính là cách mà Fed đã sử dụng rất hiệu quả trong giai đoạn 2010 – 2019 với công cụ lãi suất dự trữ vượt mức (IOER).
Công cụ thứ hai mạnh mẽ hơn, đó là tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc. Theo đó, thay vì khuyến khích các ngân hàng thương mại gửi tiền tại ngân hàng trung ương, cơ quan này “ép” các ngân hàng phải làm điều đó. Công cụ này sẽ triệt tiêu cung tiền rất nhanh, mà hoàn toàn nằm trong quyền chủ động của ngân hàng trung ương.
Vì là công cụ mạnh nhất và “cứng rắn”, nên dự trữ bắt buộc ít được sử dụng.
Công cụ thứ ba là phát hành tín phiếu bắt buộc. ây là công cụ mang tính phi thị trường, nhưng được sử dụng khi lượng tiền trong hệ thống quá nhiều.
Theo Thông tư số 16/2019/TT-NHNN quy định về phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, tín phiếu được phát hành theo phương thức đấu thầu hoặc phương thức bắt buộc.
Với công cụ này, các ngân hàng thương mại sẽ phải sử dụng lượng tiền của mình để mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, thay vì cho vay hoặc mua tài sản tài chính, cung tiền lúc này cũng sẽ bị triệt tiêu.
Như vậy, khi một lượng tiền được bơm qua hệ thống ngân hàng thì ngân hàng trung ương có thể kiểm soát một cách chủ động hoặc thụ động với lượng cung tiền trong nền kinh tế. Nói cách khác, bơm tiền không đồng nghĩa với lạm phát.
Đan Hạ
Áp lực tỷ giá chưa đáng lo
Diễn biến tỷ giá USD/VND từ đầu năm 2020 cho đến giữa tháng 3 khá ổn định. Tuy nhiên, từ giữa tháng 3-2020, tỷ giá USD/VND đã có xu hướng tăng khá mạnh tại tất cả các kênh, với mức tăng 1,7%-2% so với thời điểm đầu tháng 3. Trước diễn biến này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phải hạ giá bán USD để bình ổn thị trường.
Hạ giá bán USD can thiệp thị trường
Gần 2 tuần qua, giá USD tại các ngân hàng đã tăng khoảng 270 đồng/USD, giá USD trên thị trường tự do tăng khoảng 450 đồng/USD. Ghi nhận thị trường tỷ giá vào cuối tuần cho thấy, NHNN đã công bố tỷ giá trung tâm giảm phiên thứ 2 liên tục, giảm tổng cộng 15 đồng sau khi có động thái giảm 270 đồng giá bán USD tham khảo sở giao dịch NHNN, thấp hơn tại các NHTM và thị trường tự do.
Theo đó, ngày 27-3, Vietcombank cũng đã giảm giá USD mua vào 30 đồng về 23.510 đồng/USD nhưng vẫn giữ giá bán ra 23.700 đồng/USD. NHTM tư nhân giảm ít hơn như Techcombank chỉ giảm 18 đồng cả hai chiều mua bán xuống còn 23.532 đồng/USD mua vào và 23.692 đồng/USD bán ra.
Do giá USD tăng nóng trong thời gian ngắn, NHNN đã phải can thiệp bằng cách bán USD giá thấp cho các ngân hàng. Cụ thể, trong ngày 24-3, Sở Giao dịch NHNN đã giảm giá bán USD 258 đồng - xuống còn 23.650 đồng/USD, nên giá USD tại các ngân hàng ngay lập tức giảm nhiệt, xuống còn 23.650 đồng/USD giá bán ra.
TS Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, cho rằng sự tăng giá của đồng USD trên thị trường thế giới, cộng thêm yếu tố tâm lý, đã khiến tỷ giá trong nước tăng trong thời gian qua mặc dù cung - cầu ngoại tệ trong nền kinh tế không có biến động lớn, thậm chí nguồn cung ngoại tệ hiện vẫn rất dồi dào. Chính vì thế, động thái hạ giá bán USD của NHNN là cần thiết, có tác động tạm thời để bình ổn thị trường. Tuy nhiên, về lâu dài, tỷ giá nên để thị trường tự quyết định.
Khách hàng đến giao dịch tại một điểm đổi ngoại tệ trên đường Nguyễn Huệ, quận 1, TPHCM. Ảnh: CAO THĂNG
Chuyên gia tài chính ngân hàng Nguyễn Trí Hiếu cũng nhận định, NHNN đang có lượng dự trữ ngoại hối gần 80 tỷ USD nên có thể bơm USD ra thị trường để ngay lập tức kéo tỷ giá hạ nhiệt. Tuy nhiên, về lâu dài có thể ảnh hưởng đến nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia, nhất là đồng USD vẫn được dự báo sẽ còn tiếp tục tăng trong bối cảnh rủi ro dịch Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp trên toàn cầu.
"Sốt" trong ngắn hạn
Thực tế cho thấy, 2 tuần gần đây, USD-Index đã tăng mạnh trên thị trường tài chính toàn cầu khi các nhà đầu tư đẩy mạnh việc bán ra các tài sản tài chính và đầu tư để nắm giữ đồng USD. USD-Index đã tăng từ 94 điểm lên 103 điểm, nên đã gây áp lực lên các đồng nội tệ của các quốc gia mới nổi, trong đó có Việt Nam.
Công ty Chứng khoán MB (MBS) nhận định, các yếu tố gây sức ép lên tỷ giá trong nước được dự báo chỉ tồn tại trong ngắn hạn. Nguyên nhân chính vẫn là dịch Covid-19 đang gây ra một đợt suy thoái kinh tế trên toàn cầu, do đó các nhà đầu tư tìm đến USD như một kênh trú ẩn an toàn.
"Cân đối cung cầu ngoại tệ đến nay về cơ bản không có biến động lớn. Cán cân thương mại hàng hóa đạt thặng dư 1,82 tỷ USD trong 2 tháng đầu năm 2020 và tiếp tục thặng dư 880 triệu USD trong tháng 3-2020. Trạng thái ngoại tệ vẫn tiếp tục duy trì ở mức dương. Các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của khách hàng đều được đáp ứng đầy đủ", ông Phạm Thanh Hà, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (NHNN), cho biết.
USD-Index tăng 9% chỉ trong hơn 2 tuần, NHNN cũng phải có động thái giảm áp lực bằng cách điều chỉnh tăng tỷ giá trung tâm cũng như bán USD giá rẻ. Tuy nhiên mức độ điều chỉnh là thấp so với mức tăng của USD, cho thấy NHNN vẫn khá tự tin với khả năng điều hành tỷ giá trong thời gian tới.
"Chúng tôi đánh giá áp lực tăng giá USD trên thị trường tài chính toàn cầu có thể duy trì trong một tháng tới, song sẽ giảm trong các tháng cuối năm 2020, khi Ngân hàng Trung ương Mỹ duy trì một chính sách tiền tệ siêu nới lỏng để hỗ trợ nền kinh tế và các nhà đầu tư sẽ tích cực mua vào các tài sản tài chính, giảm nắm giữ USD trong lúc nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi sau dịch Covid-19", chuyên gia Công ty MBS phân tích.
Thêm một yếu tố nữa gây áp lực giảm giá VND là lạm phát của Việt Nam hiện đang ở mức cao. Áp lực lạm phát của Việt Nam đã tăng lên kể từ các tháng cuối năm 2019 đến các tháng đầu năm 2020. CPI bình quân 2 tháng đầu năm 2020 tăng 5,91% so với bình quân cùng kỳ 2019. Chênh lệch lạm phát của Mỹ và Việt Nam thời điểm hiện tại đã tăng lên khá cao với mức chênh lệch là 3,1% (2,3% so với 5,4%).
Trong tháng 3 và tháng 4 tới, dự kiến lạm phát tại Việt Nam sẽ suy giảm khi nhiều nhóm hàng hóa sẽ giảm giá, bao gồm: xăng dầu, thực phẩm (do nguồn cung thịt heo phục hồi trở lại), dịch vụ vui chơi ăn uống ngoài gia đình (do sức cầu thấp); do đó, mức chênh lệch lạm phát giữa Việt Nam và Mỹ dự kiến sẽ thu hẹp, làm giảm áp lực lên VND. Dựa trên lý thuyết ngang giá sức mua, MBS dự đoán cuối năm 2020, VND sẽ chỉ mất giá khoảng 2%/năm so với đầu năm.
NHUNG NGUYỄN
Vì sao VND bất ngờ giảm giá và sẽ như thế nào trong thời gian tới? Mặt bằng lãi suất huy động giảm là một trong những yếu tố làm giảm mức hấp dẫn của việc nắm gữ VND, do đó làm tăng tỷ giá VND/USD. Báo cáo mới đây của chứng khoán Bảo Việt BVSC nhận định, viêc USD Index tang manh tren thi truơng thê giơi va NHNN điêu chinh môt loat lai suât điêu hanh đa...