“Dư nợ tín dụng bất động sản và chứng khoán vẫn chiếm tỷ trọng thấp”
Thông điệp của Thủ tướng cần đặt trong quá trình thực hiện ba năm qua của nhiệm kỳ này, chứ không phải hiện nay, một quan chức Ngân hàng Nhà nước nêu quan điểm…
Nếu xem và gộp tín dụng tiêu dùng mua sửa chữa nhà ở của người dân vào tín dụng bất động sản, phải áp hệ số rủi ro tín dụng cao như tín dụng bất động sản, lãi suất cho vay chắc chắn sẽ tăng cao và triệt tiêu nhu cầu và khả năng mưu cầu nhà ở của một bộ phận dân cư – Ảnh: Quang Phúc.
Tại phiên khai mạc kỳ họp thứ sáu ngày 22/10, báo cáo về tình hình kinh tế – xã hội, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nêu chính sách phát triển tín dụng theo hướng chặt chẽ ở lĩnh vực bất động sản và chứng khoán.
Sau thông tin này, có bạn đọc đặt vấn đề với VnEconomy ở tình huống: có phải Chính phủ định hướng siết lại tín dụng bất động và chứng khoán thời gian tới?
Trao đổi với VnEconomy, một lãnh đạo chuyên trách lĩnh vực này của Ngân hàng Nhà nước cho biết, đến thời điểm này, dư nợ tín dụng bất động sản và chứng khoán trong hệ thống vẫn chiếm tỷ trọng thấp, dưới 10% mỗi loại; riêng tín dụng bất động sản nếu “cộng cả” tín dụng tiêu dùng mua và sửa chữa nhà ở, cũng chỉ hơn chục phần trăm mà thôi.
“Tại thời điểm này, tỷ trọng và dư nợ cho vay những mảng trên đều bình thường, thậm chí thấp nếu tính theo giới hạn tối đa. Hoạt động này được kiểm soát chặt chẽ, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động kiểm soát những năm gần đây, chứ không phải giờ mới đặt ra, giờ mới thực hiện, và tất nhiên không nên hiểu bây giờ siết lại”, vị lãnh đạo trên cho biết.
Ông cũng cho rằng, thông điệp trong báo cáo của Thủ tướng cần đặt trong quá trình thực hiện ba năm qua của nhiệm kỳ này, chứ không phải hiện nay.
Cụ thể, trong ba năm qua, Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng lộ trình và từng bước thực hiện, tạo các bước thời gian để các chủ thể trên thị trường chủ động chuẩn bị. Đó là việc từng bước nâng hệ số rủi ro liên quan đến tín dụng bất động sản, cũng như gián tiếp ở việc rải ra thực hiện giới hạn tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn.
Lộ trình đã ấn định, các chủ thể liên quan đã, đang và sẽ thực hiện. Theo đó, hiện không có một sửa đổi, điều chỉnh nào mới để xem là siết lại. Các ngân hàng thương mại đảm bảo được các điều kiện kỹ thuật quy định trong lộ trình đó, việc cho vay vẫn bình thường, còn lại là khẩu vị rủi ro của họ mà thôi.
Video đang HOT
Khẩu vị rủi ro, thời gian qua và hiện nay, vẫn có sự đánh đồng trong cách hiểu nào đó.
Cụ thể, có quan điểm cho rằng, thời gian qua và hiện nay các ngân hàng thương mại vẫn “lách” tín dụng bất động sản qua tín dụng tiêu dùng; và lẽ ra tín dụng tiêu dùng (vay mua nhà, sửa chữa nhà ở) phải gộp vào tín dụng bất động sản, mà như thế đang tiềm ẩn rủi ro lớn.
Mặt khác, cũng ở quan điểm trên, việc “lách” nói trên giúp ngân hàng thương mại tránh được hệ số rủi ro tín dụng thấp hơn (cho vay tín dụng tiêu dùng nói trên có hệ số rủi ro thấp hơn cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản).
Theo vị lãnh đạo chuyên trách trên của Ngân hàng Nhà nước, ở đây có sự nhầm lẫn về bản chất; các ngân hàng thương mại không thể hạch toán cùng một nhóm hai đối tượng trên, cũng như không đánh đồng tín dụng tiêu dùng mua, sửa chữa nhà ở của người dân là tín dụng bất động sản, mà qua đó đánh giá rủi ro.
Bởi lẽ, cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản có nguồn thu và nguồn trả nợ từ chính dự án đó, phụ thuộc vào thanh khoản và mức độ bán hàng của chủ động tư; trong khi đó cho vay tiêu dùng mua sửa chữa nhà ở có nguồn thu nhập, trả nợ tách khỏi dự án, người vay có nhiều nguồn thu nhập bổ sung, ví dụ như mức lương ổn định hàng tháng. Rủi ro theo đó là khác nhau.
Ở khía cạnh khác, nếu xem và gộp tín dụng tiêu dùng mua sửa chữa nhà ở của người dân vào tín dụng bất động sản, phải áp hệ số rủi ro tín dụng cao như tín dụng bất động sản, lãi suất cho vay chắc chắn sẽ tăng cao và triệt tiêu nhu cầu và khả năng mưu cầu nhà ở của một bộ phận dân cư.
Trên thực tế giám sát hệ thống, rủi ro tín dụng tiêu dùng vay mua, sửa chữa nhà ở thấp hơn tín dụng đầu tư và kinh doanh bất động sản. Thậm chí trao đổi với báo chí gần đây, lãnh đạo một ngân hàng thương mại nhà nước lớn khẳng định: hai năm nay họ đẩy mạnh cho vay tiêu dùng mua, sửa chữa nhà ở, chủ yếu nguồn trả nợ bằng lương của người vay, mà đến nay có thể nói gần như không có rủi ro, nợ xấu không đáng kể.
Theo Minh Đức
Vneconomy
Tín dụng bất động sản: "Cứ giữ trần 45%, tới năm 2020 hãy tính tiếp"
"Tôi đề nghị năm 2019, tín dụng vào bất động sản vẫn giữ trần 45% là có lý, có tình. Mình không thể nghĩ là giữ mãi, nhưng mà ít nhất là kéo dài tới năm 2019 rồi lúc đó hãy tính cái vụ năm 2020".
Đó là ý kiến của ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TPHCM (HoREA) khi trao đổi với Dân trí liên quan đến Thông tư 19/2017/TT-NHNN về tín dụng bất động sản.
Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TPHCM.
"Giữ trần 45% là có lý, có tình"
Thông tư 19/2017/TT-NHNN quy định, kể từ ngày 1/1/2019, các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được sử dụng tối đa 40% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn. Hệ số rủi ro của các khoản vay để kinh doanh bất động sản là 200%.
Theo ông Châu, nếu theo thông tư 06 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thì từ ngày 1/1/2018 đã giảm xuống 40% rồi. Nhưng cuối năm 2017, HoREA đề nghị thì NHNN mới ban hành Thông tư 19. Đó là một sự lắng nghe thấu đáo của NHNN. Nhưng theo Thông tư 19 thì từ ngày 1/1/2019 thì các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được sử dụng tối đa 40% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn.
Ông Châu cho rằng, nên nhìn nhận vào thực tế "sức khoẻ" của doanh nghiệp bất động sản hiện nay để có lộ trình điều chỉnh tín dụng cho phù hợp.
Dù thị trường phục hồi, tăng trưởng nhưng thực sự doanh nghiệp đang đứng trước nhiều thách thức, khó khăn.
Để giảm bớt thách thức thì có nhiều biện pháp nhưng trong đó cần tính tới cách tiếp cận tín dụng cho doanh nghiệp. Vì thế, HoREA đề nghị năm 2019, cứ giữ trần 45% rồi tới năm 2020 hãy tính tiếp.
"HoREA đề nghị năm 2019 vẫn giữ trần 45% là có lý, có tình. Mình không thể nghĩ là giữ mãi, nhưng mà ít nhất là kéo dài tới năm 2019 rồi lúc đó hãy tính cho các năm tiếp theo", ông Châu nói.
Dù thị trường phục hồi, tăng trưởng nhưng thực sự doanh nghiệp đang đứng trước nhiều thách thức, khó khăn.
Vốn tín dụng vẫn là "then chốt"
Ông Lê Hoàng Châu cho rằng, điều quan trọng nhất là thị trường bất động sản phải có nguồn vốn thay thế. Nguồn vốn thay thế đó phải có hướng mới chính là hợp tác quốc tế (FDI) và nguồn vốn chứng khoán.
"Bây giờ, số doanh nghiệp bất động sản niêm yết trên sàn chứng khoán còn rất ít. Đó là một điểm yếu của doanh nghiệp bất động sản. Phải minh bạch doanh nghiệp từ đó huy động vốn xã hội qua sàn chứng khoán", ông Châu mách nước.
Đối với nguồn vốn FDI, ông Châu cho biết, trong 6 tháng đầu năm 2018, cả nước có 2.749 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị vốn góp gần 4,1 tỷ USD, tăng 82,4% so với cùng kỳ 2017.
Theo đó, tính chung trong 6 tháng năm 2018, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 20,33 tỷ USD, tăng 5,7% so với cùng kỳ. Riêng lĩnh vực hoạt động kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư 5,54 tỷ USD. Đứng thứ ba là lĩnh vực bán buôn, bán lẻ với tổng vốn đầu tư đăng ký 1,5 tỷ USD, chiếm 7,4% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Chủ tịch HoREA cũng nhận định, mặc dù nguồn vốn FDI đang tốt dần lên nhưng nguồn vốn tín dụng vẫn là quan trọng. Cho nên, song song với việc đẩy mạnh huy động vốn từ việc hợp tác quốc tế thì doanh nghiệp cũng cần hết mực chú trọng việc bổ sung vốn từ "nguồn vốn chủ lực" là vốn tín dụng.
Do đó, HoREA đã gửi công văn trình Thủ tướng Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc kiến nghị Ngân hàng Nhà nước tiếp tục cho phép các tổ chức tín dụng được sử dụng tỷ lệ tối đa 45% của nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn trong năm 2019.
Theo Dân trí
Kiến nghị giữ tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn 45% Ngày 27.9, Hiệp hội Bất động sản TP.HCM (HoREA) kiến nghị cho phép các ngân hàng được sử dụng tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn tối đa 45% trong năm 2019, thay vì giảm còn 40% từ ngày 1.1.2019. Tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn giảm từ năm 2019 Điều chỉnh là chưa cần thiết,...