Độ mở và lưới lọc trong chương trình mới Ngữ văn
Chương trình Ngữ văn mới không quy định cụ thể các văn bản được dạy trong từng lớp. Tuy vậy, một số tác phẩm có vị trí đặc biệt, bắt buộc dạy học trong nhà trường như: Nam quốc sơn hà (tương truyền của Lý Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi), Truyện Kiều (Nguyễn Du), Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu), Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí Minh).
ảnh minh họa
Tất cả các văn bản còn lại, chương trình chỉ nêu gợi ý, khuyến nghị để tác giả sách giáo khoa và giáo viên tham khảo, hình dung được độ khó, độ dài và sự thích hợp về thể loại, đề tài của văn bản đối với từng lớp học. Một số ý kiến cho rằng, độ mở quá rộng này gây khó khăn trong thống nhất chương trình, kiểm tra, đánh giá cũng như trong kiểm soát các ngữ liệu được đưa vào dạy học.
Có nên chỉ quy định 6 tác phẩm bắt buộc?
Tại tọa đàm góp ý chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn do Hội đồng Lý luận và phê bình văn học nghệ thuật trung ương tổ chức ngày 22/3, có những ý kiến bày tỏ sự băn khoăn trước độ mở của chương trình Ngữ văn mới.
PGS.TS Nguyễn Bá Thành (ĐHQG Hà Nội) khi đánh giá về dự thảo chương trình môn Ngữ văn cho rằng đây là bản thảo rất công phu, rất bài bản và chi tiết. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong lịch sử biên soạn sách giáo khoa, chương trình một môn học được dự thảo và trưng cầu ý kiến khá rộng của các nhà chuyên môn, các nhà giáo, nhà văn.
“Nếu tác phẩm bắt buộc chỉ chiếm 2-3% toàn bộ chương trình thì ý nghĩa cứng của chương trình sẽ mất đi và chương trình không đảm bảo yêu cầu định tính và định lượng”
PGS.TS Nguyễn Bá Thành
Tuy nhiên, PGS.TS Nguyễn Bá Thành cho rằng, chương trình cần định tính và định lượng rõ hơn giữa các cấp học; cần mở rộng tác phẩm quy định dùng cho nhà trường qua cơ chế chọn lọc của các hội đồng, như Hội đồng lý luận phê bình, Hội Nhà văn, Hội Ngôn ngữ học và Hội đồng khoa học của Bộ GD&ĐT. Cần dựa vào c hương trình đang thực học hiện nay và tăng cường thêm các tác phẩm văn học có giá trị để góp phần bồi dưỡng nhân cách thế hệ trẻ.
“Nếu tác phẩm bắt buộc chỉ chiếm 2-3% toàn bộ chương trình thì ý nghĩa cứng của chương trình sẽ mất đi và chương trình không đảm bảo yêu cầu định tính và định lượng” – PGS.TS Nguyễn Bá Thành .
GS.TS Lã Nhâm Thìn (nguyên trưởng khoa Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội) đồng ý cần xây dựng chương trình theo hướng mở, nhưng cũng cho rằng nên cân nhắc lại quan niệm: giáo viên dạy môn Ngữ văn có thể không cần dựa vào bất cứ cuốn sách giáo khoa nào, có thể tùy chọn bất kỳ tác phẩm nào, miễn là đảm bảo mục tiêu, yêu cầu cần đạt.
Theo GS, văn học trong nhà trường là văn học mang định hướng tư tưởng, có tính giáo dục, nên “mở” để tạo nên tính đa dạng trong sự thống nhất như “mở” quá mức độ sẽ dẫn đến những khó khăn trong khâu kiểm tra, đánh giá”.
Video đang HOT
PGS.TS Phạm Quang Long (ĐHQG Hà Nội) cũng bày tỏ băn khoăn nếu chỉ chọn 6 tác phẩm, còn lại do người viết sách và người dạy tự chọn sẽ gây khó khăn cho khâu tổ chức giảng dạy, đánh giá, thi cử. Bên cạnh đó, lựa chọn sai ngữ liệu sẽ dẫn đến những kết quả không mong muốn.
“Cần điều chỉnh theo hướng xác định rõ các tác phẩm được chọn như là những yêu cầu bắt buộc, hay ít nhất cũng chỉ hạn chế lượng tác phẩm tự chọn chiếm xấp xỉ 20-25% chứ không mở rộng như hiện nay. Số tác phẩm tự chọn này cũng phải được chương trình giới thiệu và những người viết sách hoặc tổ chức giảng dạy cũng chỉ được lựa chọn trong số ấy” – PGS.TS Phạm Quang Long đề nghị.
Mở nhưng có nhiều tầng lưới lọc
Theo PGS.TS Đỗ Ngọc Thống – Chủ biên chương trình môn Ngữ văn – chương trình đưa ra 6 tác phẩm bắt buộc không có nghĩa là chỉ dạy 6 tác phẩm ấy. Trong số 2.520 tiết, 6 tác phẩm nói trên chỉ chiếm 20 tiết, còn lại 2.500 tiết để dạy các tác phẩm khác.
Trước băn khoăn về việc tự chọn tác phẩm, PGS Đỗ Ngọc Thống cho rằng: Trước hết phải tin vào các tác giả viết sách, họ đều là các chuyên gia có học hàm, học vị cao đến từ các trường đại học lớn. Bên cạnh đó việc lựa chọn văn bản- tác phẩm phải tuân thủ các quy định về tiêu chí và yêu cầu của chương trình; rồi lại phải thông qua sự thẩm định của Hội đồng thẩm định quốc gia sách giáo khoa. Cuối cùng, trong cơ chế có nhiều bộ sách giáo khoa, nếu bộ nào kém chất lượng, chắc chắn cuốn sách đó sẽ bị các thầy cô giáo, các em HS đào thải.
“Cần điều chỉnh theo hướng xác định rõ các tác phẩm được chọn như là những yêu cầu bắt buộc, hay ít nhất cũng chỉ hạn chế lượng tác phẩm tự chọn chiếm xấp xỉ 20-25% chứ không mở rộng như hiện nay. Số tác phẩm tự chọn này cũng phải được chương trình giới thiệu và những người viết sách hoặc tổ chức giảng dạy cũng chỉ được lựa chọn trong số ấy” PGS.TS Phạm Quang Long.
Tổng chủ biên Chương trình giáo dục phổ thông, GS Nguyễn Minh Thuyết trao đổi về vấn đề này cũng đưa ra 4 “lưới lọc” khi thực hiện một chương trình Ngữ văn mở. Thứ nhất là trong chương trình đã đưa ra các tiêu chí và yêu cầu lựa chọn văn bản (ngữ liệu). Thứ 2 là Thông tư của Bộ GD&ĐT về quy định tiêu chuẩn, quy trình biên soạn sách giáo khoa cũng như tổ chức và hoạt động của hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa. Tầng lọc thứ 3 là các nhà xuất bản; cuối cùng là Hội đồng thẩm định sách giáo khoa quốc gia.
Theo công bố của Ban soạn thảo, Chương trình Ngữ văn được xây dựng theo hướng mở; thể hiện ở việc không quy định chi tiết về nội dung dạy học và các văn bản cụ thể cần dạy mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp; quy định một số kiến thức cơ bản, cốt lõi về văn học, tiếng Việt và một số văn bản có vị trí, ý nghĩa đặc biệt của văn học dân tộc là nội dung thống nhất bắt buộc đối với học sinh toàn quốc.
Những văn bản khác được chương trình nêu lên trong phần phụ lục chỉ như một gợi ý về ngữ liệu, minh hoạ về thể loại, kiểu văn bản, đề tài và sự phù hợp với nhận thức, tâm lí lứa tuổi; nhằm đáp ứng các yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói, nghe ở mỗi lớp và nhóm lớp.
Căn cứ vào các yêu cầu bắt buộc này, các tác giả sách giáo khoa, cơ sở giáo dục và giáo viên môn Ngữ văn hoàn toàn chủ động, sáng tạo trong việc triển khai các nội dung dạy học cụ thể theo yêu cầu phát triển chương trình.
Giáo viên được lựa chọn sách giáo khoa, sử dụng một hay kết hợp nhiều sách, nhiều nguồn tư liệu khác nhau để dạy học, miễn là bám sát mục tiêu và đáp ứng yêu cầu cần đạt của chương trình. Việc đánh giá kết quả học tập cuối năm, cuối cấp không dựa vào các ngữ liệu đã học trong một cuốn sách giáo khoa Ngữ văn cụ thể mà lấy yêu cầu cần đạt nêu trong văn bản chương trình môn học làm căn cứ để biên soạn đề kiểm tra, đánh giá.
Theo Giaoducthoidai.vn
Hướng tới giáo viên không "chạy đua" theo văn bằng, chứng chỉ
Bộ GD&ĐT đang xây dựng Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học và trung học, thay thế hai bộ chuẩn hiện hành. Trong Ban soạn thảo, GS.TS Nguyễn Quý Thanh - Hiệu trưởng Trường ĐH Giáo dục (ĐHQG Hà Nội) - đã những điểm mới đáng lưu ý trong xây dựng bộ chuẩn, trong đó có việc khắc phục giáo viên chạy đua theo văn bằng, chứng chỉ.
ảnh minh họa
Sự cần thiết xây dựng chuẩn mới
Hiện nay, chúng ta đã có Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học (Quyết định số 14/2007/QĐ-BGDĐT) và Chuẩn nghề nghiệp giáo viên THCS, THPT (Quyết định số 30/2009/TT-BGDĐT). Vậy tại sao cần phải xây dựng chuẩn mới, thưa GS?
Có thể thấy, từ nội dung đến cách thức đánh giá theo Chuẩn nghề nghiệp giáo viên hiện nay chưa tạo ra sự phân hóa trong đội ngũ giáo viên và mức chuẩn còn thấp nên, đại đa số giáo viên đều đạt và vượt chuẩn. Bởi vậy, ý nghĩa trong việc tạo động lực để giáo viên phấn đấu không cao. Bên cạnh đó, quy trình đánh giá chưa đủ chặt chẽ, minh chứng chưa được xác định khách quan và rõ ràng. Do đó cần phải xây dựng minh chứng một cách tường minh để có thể đánh giá khách quan và tạo ra sự phân hóa. Việc xây dựng chuẩn mới còn xuất phát từ Chương trình giáo dục phổ thông mới đặt ra những yêu cầu mới đối với năng lực của đội ngũ giáo viên.
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học, trung học được xây dựng và phát triển trên cơ sở thực hiện các hoạt động nghề nghiệp đặc thù, sự gắn kết mật thiết giữa những hiểu biết về chuyên môn, khả năng thực hiện hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, quá trình phát triển phẩm chất cá nhân và giá trị nghề nghiệp. Năng lực của giáo viên tiểu học, trung học được thể hiện trong từng lĩnh vực hoạt động chức năng, theo từng giai đoạn phát triển nghề nghiệp của giáo viên (mới vào nghề, thành thạo nghề, có uy tín trong nghề, lãnh đạo chuyên môn - giáo viên cốt cán).
Xây dựng chuẩn nghề nghiệp dựa trên khung năng lực thực hiện các hoạt động nghiệp vụ chuyên môn của người giáo viên trong từng bối cảnh, lĩnh vực cụ thể của thực tế dạy học và giáo dục trong nhà trường.
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học, trung học được xây dựng trên cơ sở sàng lọc, kế thừa, điều chỉnh và phát triển các nội dung được thể hiện trong Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học (2007), Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học (2009), kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và quốc tế như Chuẩn nghề nghiệp giáo viên của Úc (2011), một số kết luận khuyến nghị của SEAMEO (2010) trong đánh giá việc xây dựng Chuẩn nghề nghiệp giáo viên của 11 nước Đông Nam Á.
GS có thể cho biết rõ hơn về những mục đích cụ thể để làm căn cứ xây dựng Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học và trung học hiện nay?
GS Nguyễn Quý Thanh
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học, trung học được xây dựng làm căn cứ để giáo viên tự đánh giá (theo chuẩn) và tự học, tự bồi dưỡng (để nâng mức đạt chuẩn) nhằm nâng cao chất lượng dạy học và tạo động lực phát triển nghề nghiệp chuyên môn đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, nhằm mục đích:
Xác định đúng thực trạng năng lực đội ngũ giáo viên phổ thông qua việc áp dụng chuẩn và đánh giá theo chuẩn trong công việc chuyên môn; Định hướng cho các cơ sở đào tạo giáo viên xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo đáp ứng yêu cầu theo chuẩn; Căn cứ kết quả đánh giá, đối tượng được đánh giá xây dựng và thực hiện kế hoạch tự bồi dưỡng và tự hoàn thiện đáp ứng yêu cầu theo chuẩn; Các cơ quan quản lí Nhà nước và các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng sử dụng kết quả đánh giá theo chuẩn để xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách phát triển đội ngũ và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ.
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học, trung học được áp dụng để đánh giá giáo viên dạy các môn văn hóa trong trường tiểu học, THCS, trường THPT, trường phổ thông có nhiều cấp học, trường dự bị đại học và, dự bị đại học dân tộc thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; làm căn cứ để xây dựng tiêu chuẩn lựa chọn giáo viên cốt cán. Các giáo viên dạy các môn đặc thù cũng được đánh giá trên cơ sở bộ tiêu chuẩn này cùng với các tiêu chí và phương pháp đặc thù.
Văn bằng, chứng chỉ cũng chỉ là điều kiện cần
Đâu là điểm mới đáng chú ý trong Chuẩn nghề nghiệp giáo viên đang được xây dựng, thưa GS?
"Về cách đánh giá, chuẩn hiện hành cho điểm từng tiêu chí sau đó cộng lại. Cách mới không cho điểm từng tiêu chí mà xét theo nguyên tắc, nếu đủ minh chứng thì đạt mức đó, không đủ minh chứng thì xuống mức thấp hơn. Trong minh chứng có minh chứng lõi, quyết định - là toàn bộ các minh chứng về chuyên môn. Đây là điều giáo viên bắt buộc phải đạt nếu muốn ở mức chuẩn nào đó. Cuối cùng, chuẩn về trình độ đào tạo có nâng lên so với yêu cầu hiện hành".
GS Nguyễn Quý Thanh
Về điểm mới, chuẩn hiện hành đánh giá trên nhiều tiêu chí nhưng dàn đều. Chuẩn mới nhìn theo thang phát triển năng lực từ thấp đến cao, số lượng tiêu chí giảm đi, nhưng phân mức cụ thể hơn. Mỗi tiêu chuẩn có nhiều tiêu chí, mỗi tiêu chí đều đi theo 4 mức: Tối thiểu, Đạt, Khá và Tốt.
Mức "Tối thiểu" là mức cơ bản: Giáo viên nắm vững, hiểu biết, nhận diện tốt nội dung. Mức "Đạt", giáo viên thực hiện được các nhiệm vụ ở mức cơ bản. Mức "Khá", giáo viên phải có thêm khả năng lan tỏa, có thể tuyên truyền, vận động người khác. Mức "Tốt" là người có khả năng dẫn dắt, hướng dẫn được đồng nghiệp, là tấm gương mẫu mực về phẩm chất nghề nghiệp.
Ngoài xếp theo mức một cách rõ ràng hơn chuẩn hiện hành, chuẩn mới cũng định nghĩa rõ hơn về các mức năng lực (tiếp cận theo tổng thể), trong mỗi mức có mốc rất rõ, có ranh giới rõ ràng trong từng tiêu chí; trong khi chuẩn hiện hành dùng điểm số để cộng trung bình nên sự khác biệt giữa các mức không rõ (cách tiếp cận trung bình hóa).
Có hiện tượng một bộ phận giáo viên hiện nay "chạy đua" theo văn bằng, chứng chỉ để đáp ứng chuẩn. Theo GS, hạn chế này sẽ được khắc phục như thế nào trong bộ chuẩn mới?
Để hạn chế việc giáo viên "chạy đua" theo văn bằng, chứng chỉ, trong chuẩn mới phân biệt bằng cấp và trình độ. Mặc dù vẫn yêu cầu về chuẩn đào tạo, nhưng đồng thời phải thể hiện qua nhiệm vụ của giáo viên và phải được đánh giá qua phương pháp 360 độ; tức là ngoài việc giáo viên tự đánh giá còn có đồng nghiệp đánh giá, cấp trên đánh giá, học sinh và cha mẹ học sinh đánh giá, tổ trưởng dân phố đánh giá với các trọng số khác nhau. Thông thường, tự đánh giá chỉ là phần nhỏ, chiến khoảng 1/5 tổng trọng số, còn lại 4/5 là đánh giá của các bên liên quan.
Như vậy, bằng cấp, chứng chỉ cũng chỉ là điều kiện cần; để đạt mức "Khá", "Tốt" còn phải phụ thuộc vào sự thể hiện của giáo viên trong công việc. Do đó, bằng cấp như nhau nhưng có thể bị đánh giá thấp hơn nếu kết quả đánh giá các bên liên quan thấp hơn.
Một điều nữa, nếu chuẩn hiện hành chỉ đánh giá định tính thì chuẩn mới chú trọng nhiều đến minh chứng và thiên về định lượng nhiều hơn; tuy nhiên không cứng nhắc bởi những minh chứng trực tiếp mà còn phải có ý kiến đánh giá của những người liên quan đến hoạt động dạy và giáo dục của giáo viên.
Xin cảm ơn GS!
Theo Giaoducthoidai.vn
PGS Đỗ Ngọc Thống: 12 năm phổ thông không chỉ học 6 tác phẩm văn học PGS.TS Đỗ Ngọc Thống cho biết chương trình Ngữ văn mới đưa ra 6 tác phẩm bắt buộc nhưng không có nghĩa học sinh chỉ học 6 tác phẩm ấy. ảnh minh họa Theo thông tin từ ban soạn thảo chương trình phổ thông mới, chương trình Ngữ văn sẽ có. Đó là bài thơ Thần, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo,...