Điều hành chính sách tiền tệ theo tín hiệu thị trường
Sau một năm ghi nhận những kết quả tích cực, công tác điều hành chính sách tiền tệ năm 2020 sẽ đối mặt với một số thách thức từ cả bên trong nền kinh tế và biến động của thị trường quốc tế. Điều này đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải có những kịch bản ứng phó linh hoạt và hiệu quả trong thời gian tới.
Các công cụ chính sách đồng bộ đã giúp lạm phát luôn được kiểm soát ở mức thấp, mặc dù lượng tiền bơm ra nền kinh tế rất lớn. Ảnh: Nhã Chi
Quy mô tín dụng rất lớn
Tại Hội nghị trực tuyến triển khai nhiệm vụ ngân hàng năm 2020 ngày 2/1, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Minh Hưng cho rằng, thành công lớn nhất của ngành ngân hàng trong năm 2019 là điều hành chính sách tiền tệ một cách chủ động, linh hoạt, kiểm soát lạm phát ở mức thấp.
Bên cạnh đó, lãi suất giữ được ổn định và giảm, đặc biệt là lãi suất cho các lĩnh vực ưu tiên. Hiện nay, trần lãi suất cho vay lĩnh vực ưu tiên chỉ còn 6%. NHNN chủ động điều tiết, giảm các mức lãi suất điều hành vào thời điểm phù hợp, với khối lượng và liều lượng thích hợp để đạt được kết quả giảm mặt bằng lãi suất, chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp, người dân vay vốn ngân hàng.
Về tỷ giá và thị trường ngoại hối, đến nay quy mô dự trữ ngoại hối của Việt Nam đạt xấp xỉ 80 tỷ USD, trở thành “tấm đệm” quan trọng cho quốc gia trong việc bảo vệ an ninh tài chính, phòng ngừa những tác động bên ngoài.
Việc điều hành tín dụng trong năm 2019 được đánh giá là hợp lý, với mức tăng trưởng xấp xỉ 14%. Như vậy, hệ thống ngân hàng đã cung ứng cho nền kinh tế khoảng 8,2 triệu tỷ đồng. Quy mô tín dụng rất lớn nhưng vẫn đảm bảo an toàn và kiểm soát tốt chất lượng tăng trưởng tín dụng.
Theo ông Lê Minh Hưng, bên cạnh công tác điều hành chính sách tiền tệ nêu trên, ngành ngân hàng cũng chú trọng việc thanh tra giám sát và đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng. Qua công tác này, thực hiện việc cảnh báo những vấn đề rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt động, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Công tác cơ cấu lại và xử lý nợ xấu cũng đã được xử lý một cách quyết liệt và có hiệu quả, bảo đảm tốt chất lượng hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Đánh giá cao thành tích đạt được năm 2019 của ngành ngân hàng, Thủ tướng Chính phủ cho biết, trong bối cảnh thế giới, thị trường tài chính tiền tệ biến động, các nước phải nới lỏng chính sách tiền tệ thì NHNN đã thực hiện tốt các mục tiêu kiểm soát cung tiền, lãi suất, kiểm soát lạm phát ở mức thấp nhất trong 3 năm qua, tỷ giá cơ bản ổn định.
Video đang HOT
Vừa khơi thông nguồn vốn vừa ổn định vĩ mô
Dù đạt những kết quả tích cực như trên, song theo Thống đốc Lê Minh Hưng, ngành ngân hàng vẫn còn một số mặt chưa làm được và cần tập trung xử lý trong thời gian tới.
Theo đó, ngành ngân hàng phải làm tốt hơn nữa với nhiều kịch bản điều hành chính sách tiền tệ khác nhau. Đồng thời, phải năng động, chủ động bám sát diễn biến thị trường quốc tế và khu vực để kịp thời tham mưu cho Chính phủ. Bên cạnh đó, ngành ngân hàng cần tiếp tục nỗ lực và có phương pháp tăng tiến độ xử lý, hạn chế nợ xấu phát sinh.
Về công tác thanh tra giám sát, theo Thống đốc, cần tăng cường củng cố thanh tra từ cấp trung ương đến chuyên ngành, không ngừng nâng cao chất lượng thanh tra, tăng cường cảnh báo và ngăn chặn sớm các rủi ro.
Về những điểm khó khăn của ngành ngân hàng, Thủ tướng Chính phủ cho rằng, công tác xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém còn nhiều trở ngại. Cùng với đó, công tác đảm bảo an ninh và hoạt động ngân hàng đối mặt với nhiều rủi ro ngày càng tinh vi, phức tạp như gian lận, lừa đảo, tấn công mạng dẫn đến việc để lộ nhiều thông tin cá nhân, mất tiền trong tài khoản… gây ảnh hưởng đến uy tín của nhiều ngân hàng.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu, trong công tác điều hành chính sách tiền tệ, ngành ngân hàng cần tiếp tục chủ động và theo quy luật thị trường, khơi thông nguồn vốn đồng thời phối hợp với các cơ quan khác để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế.
Xuân Yến
Theo Baodauthau.vn
Giải mã điểm lệch lãi suất trên thị trường vốn
Tháng 10, lãi suất trái phiếu chính phủ ghi nhận mức thấp kỷ lục, trong khi trên thị trường vốn, các doanh nghiệp, ngân hàng vẫn duy trì huy động vốn với lãi suất cao. Đâu là nguyên nhân của tình trạng này?
Nhìn từ góc độ điều hành chính sách tiền tệ, trong khi các nước đang thực hiện nới lỏng chính sách tiền tệ, tăng cung tiền, hoặc giảm lãi suất cơ bản nhằm kích thích kinh tế và thu hút xuất khẩu, thì Việt Nam dù không phát ngôn chính thức cũng không thể ngoại lệ.
Bởi lẽ, nếu không duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ có các hệ lụy sau xảy ra với nền kinh tế.
Một là, xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng, ảnh hưởng tới cán cân thanh toán và GDP.
Hai là, dòng vốn đầu cơ hưởng chênh lệch tỷ giá (carry trade) dồn vào Việt Nam, đẩy giá VND lên, trong khi lãi suất không thay đổi, duy trì trạng thái cao hơn tương đối so với quốc tế sẽ làm cho nhập siêu tiếp tục tăng, ảnh hưởng tới công tác dự báo, điều hành và hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.
Nguy hiểm hơn, khi dòng vốn carry trade rút ra (khó có thể dự báo được thời điểm) có thể gây cú sốc tỷ giá cho nền kinh tế, đặc biệt trong giai đoạn cuối năm - Việt Nam có xu hướng nhập khẩu nhiều.
Nhìn vào kết dư dự trữ ngoại hối của Việt Nam đạt kỷ lục 71 tỷ USD cuối quý III/2019, càng có cơ sơ để duy trì lãi suất cơ bản thấp và các công cụ chính sách tiền tệ nới lỏng, để tránh làm VND lên giá.
Chính các động thái từ chính sách tiền tệ là tín hiệu cho chính sách tài khóa trong việc huy động trái phiếu chính phủ.
Đứng từ quan điểm điều hành chính sách tài khóa, giải ngân đầu tư công năm 2019 rất chậm. Tính đến hết tháng 7, giải ngân đầu tư công trên cả nước mới đạt 31,32% kế hoạch.
Trước tình hình cầu chi đầu tư không có, ứ đọng ngân sách đầu tư, cộng thêm với chính sách tiền tệ nới lỏng, xu hướng giảm lãi suất trái phiếu chính phủ nhiều khả năng sẽ tiếp diễn.
Vậy tại sao lãi suất trái phiếu chính phủ, lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất trên thị trường mở (OMO), lãi suất tín phiếu Ngân hàng Nhà nước giảm, mà lãi suất huy động trên thị trường I (huy động vốn của các ngân hàng từ dân cư và tổ chức kinh tế) không giảm?
Thực tế, cuộc đua giành thị phần huy động chưa bao giờ hết nóng. Các ngân hàng bắt buộc phải duy trì một mức lãi suất đủ hấp dẫn người gửi tiền để tránh bị giảm thị phần, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ.
Bởi lẽ, ngoài việc phải cạnh tranh giữ thị phần thì mốc áp dụng Basel II với các ngân hàng ngày càng đến gần, nếu các ngân hàng nhỏ để mất thị phần huy động, đồng nghĩa với nguy cơ không đáp ứng đủ điều kiện Basel II.
Chỉ có một sự bất thường ở đây, đó là không có sự liên thông giữa thị trường II (thị trường tiền tệ liên ngân hàng) với thị trường I.
Ở thị trường II, lãi suất rẻ nhưng phải có công cụ tài chính bán repo (bán và cam kết mua lại) cho Ngân hàng Nhà nước, hoặc chỉ huy động được kỳ hạn qua đêm (overnight) và 1 tuần.
Điều rất khó đối với các ngân hàng quy mô nhỏ, những ngân hàng không có nhiều tài sản tài chính để repo, cũng như không có tiền gửi vãng lai để kinh doanh trên thị trường II. Hầu như chỉ có các ngân hàng lớn mới tận dụng được lợi thế này.
Với lợi thế huy động được giá rẻ từ hoạt động kinh doanh nguồn trên thị trường II, các ngân hàng lớn thu lợi từ chênh lệch lãi suất khi dùng tiền này đầu tư vào trái phiếu chính phủ.
Hoặc bản thân các ngân hàng lớn có nhiều khách hàng doanh nghiệp, số dư trên tài khoản vãng lãi lớn, có thể dùng tiền này mua trái phiếu chính phủ, sau đó repo trên thị trường OMO.
Trường hợp dùng số dư tài khoản vãng lai để kinh doanh trên thị trường overnight, ngân hàng vẫn có lãi, dựa trên quy mô tiền gửi vãng lai đang quản lý. Khi có nguồn tiền vãng lai đủ lớn, kinh doanh nguồn có thể đem lại nhiều lợi nhuận hơn các dịch vụ ngân hàng.
Tình trạng trên kéo dài sẽ ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Chi phí đầu tư kinh doanh của toàn xã hội tăng lên, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa trong nước so với nhập khẩu nước ngoài, cũng như so với việc xuất khẩu ra nước ngoài.
Thị trường II, thị trường OMO thực chất là thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng cho nền kinh tế, tuy nhiên, trong trường hợp này lại chưa thực hiện được vai trò đó. Khoảng trống giữa 2 thị trường càng lớn, phản ánh mức độ phân hóa cấp độ của các ngân hàng càng lớn.
Minh Ngọc
Theo Tinnhanhchungkhoan.vn
Fed loay hoay tìm cách dự báo chính trị Tháng 7/2019, lần đầu tiên sau 10 năm, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cắt giảm lãi suất 0,25%. Tháng 9, tháng 10 sau đó, Fed lại cắt giảm lãi suất thêm 2 lần nữa. Sau khi liên tục tăng lãi suất từ năm 2015 và dự kiến đến 2020 mới kết thúc chương trình bình thường hoá chính sách tiền tệ,...