Dịch giả như là những anh hùng văn hóa
Trong bối cảnh các nhà nghiên cứu KHXH&NV nói chung và các nhà nghiên cứu văn học nói riêng ở Việt Nam còn đang loay hoay với câu hỏi thế nào là một công trình nghiên cứu thì cuốn Những thế giới song song: Khả thể và giới hạn trong (tái) diễn giải văn chương của Phùng Ngọc Kiên xuất hiện như một hiện thân mẫu mực của câu trả lời cho câu hỏi đó.
Đây cũng là cuốn sách được tựu thành từ kết quả của nghiên cứu so sánh về Flaubert mà tác giả tiến hành và trình bày tại Đại học Paris-Diderot (Pháp).
Trên cơ sở đối chiếu các bản dịch tiếng Việt tiểu thuyết Bà Bovary của nhà văn Pháp Gustave Flaubert – hai bản dịch của NXB Văn học năm 1978 và một bản phóng tác tại Miền Nam trước năm 1975 – với nhau và đối chiếu các bản dịch này với văn bản tiếng Pháp, cuốn sách khẳng định dịch thuật “như là một sự viết lại, một sự tái diễn giải” (tr.20).
Dù đối tượng nghiên cứu là các văn bản tiếng Việt trong bối cảnh văn hóa, ngôn ngữ và lịch sử Việt Nam liên quan đến các văn bản đó, nhưng công trình này có độc giả quốc tế tiềm tàng khi tác giả ý thức rõ về mục tiêu các phân tích của mình là hướng tới những vấn đề mang tính lí thuyết – hoặc bổ sung, hoặc chứng minh, và hoặc đối thoại với những quan điểm về dịch thuật đang thống trị nền học thuật phương Tây như quan điểm tái diễn giải trong hành vi dịch (của Walter Benjamin, Yourie Lotman), “hành vi thông tin giữa cái tôi (ego) và kẻ khác” của kinh nghiệm thẩm mĩ (của H.-R Jauss, Charles Moran, hay Jean-Pierre). Đây còn là công trình mang tính liên ngành, hướng tới không chỉ độc giả của ngành nghiên cứu văn học mà còn các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác như lịch sử và ngôn ngữ học.
Điều thú vị nhất, với luận điểm “Kinh nghiệm thẩm mĩ dịch”, cuốn sách dường như ngầm đề xuất một cách hóa giải đối với sự đánh giá đúng/sai, tốt/xấu vốn đang thống trị trong cái nhìn đối với bản dịch và người dịch. Theo đó, mỗi văn bản đều có những tiềm năng sẽ được phát lộ và phát triển khi có sự can thiệp của kinh nghiệm thẩm mĩ đặc thù của dịch giả, người có những lựa chọn riêng về từ ngữ, cú pháp, thẩm mĩ cũng như xã hội học trong việc biểu hiện sự tiếp nhận và diễn giải của mình. Kết quả là, mỗi cách dịch là một sự diễn giải “riêng phần” của người dịch, là một khía cạnh trong tính đa nghĩa-đa diện của tác phẩm được dịch. Không có bản dịch nào là toàn thể và toàn trị; mọi bản dịch đều là hiện thân của cái khả năng tiềm ẩn của một tác phẩm.
Video đang HOT
Đặc biệt, những luận bàn của cuốn sách về sự dịch như là một “kẻ khác” trong nền văn hóa nhận gợi nhắc độc giả đến chiến lược phản kháng của văn hóa nhược tiểu với văn hóa thống trị trong lí thuyết hậu thuộc địa. Ở bản dịch luôn tồn tại sự “dịch sai” so với bản gốc và sự “xa lạ”, sự “lệch chuẩn” về ngôn từ và cách nghĩ so với cách viết, cách nghĩ thống trị, đã được thiết lập trong nền văn hóa bản địa.
Sự “sai” và sự “lệch chuẩn” này va chạm với các chuẩn mực của văn hóa bản địa. Nhưng theo lập luận của các nhà lí thuyết hậu thuộc địa, chúng lại là một hình thức “phản kháng” ngầm đối với văn hóa thống trị, làm phát lộ những giá trị, những khả năng cũng như những vấn đề trong các chuẩn mực, các điển phạm của nền văn hóa đó. Chúng cũng có khả năng phát lộ và bù đắp vào những thiếu hụt, hạn chế, hay khoảng trống của nền văn hóa đó. Theo cách hiểu như vậy, người dịch đóng vai trò như những anh hùng văn hóa khi họ “phá vỡ chính những quy tắc của mình và xã hội từng được thiết lập” (tr. 318) để làm mới, làm khác nền văn hóa bản địa.
Phạm Phương Chi
Theo khoahocphattrien.vn
Cô gái Việt vượt qua hơn 3.000 dự án, ẵm trọn học bổng 200.000 USD
Nguyễn Lữ Minh Hằng 21 tuổi đến từ Việt Nam bước lên trình bày nghiên cứu của mình tại hội thảo Massachusetts Undergraduate Conference. Đây là chương trình cho dự án nghiên cứu ở bậc đại học của bang Massachusetts (Mỹ).
Nguyễn Lữ Minh Hằng bên dự án đem lại học bổng 200.000 USD
Vượt qua hàng ngàn dự án vòng ngoài, rồi hàng trăm dự án vòng chung kết, cái tên Nguyễn Lữ Minh Hằng được xướng lên. Đó là cả nỗ lực của Hằng trong quãng thời gian học tập và sinh sống ngắn ngủi tại Mỹ.
Hằng đã phải vượt qua hơn 3.000 dự án khác và may mắn là một trong số 120 người cuối cùng được trình bày nghiên cứu của mình tại hội thảo. Đây là một chương trình bang Massachusetts đề ra để khuyến khích các học sinh bậc đại học nghiên cứu và tạo ra những dự án có giá trị cho xã hội. Và Hằng đã "bỏ túi" học bổng.
Chính nhờ có công trình nghiên cứu này, Hằng đã vượt qua các bạn khác và thành công xin được học bổng trị giá 200.000 USD của Northeastern University, một trường đại học đứng top 40 của nước Mỹ. Ngoài ra, em cũng dành được suốt học bổng 100% của trường University of Massachusetts Amherst, và học bổng trị giá 30.000 USD/ năm của trường Boston College. Cuối cùng, em đã chọn học Northeastern University.
Hằng nhớ lại, suốt những năm cấp 3 dưới mái trường Chuyên Ngoại Ngữ Hà Nội Hằng không hề có hứng thú với việc học. Đối với em, kinh doanh là thứ gì đó đi vào trong máu. Hằng đã làm mọi cách chứng minh cho bố mẹ thấy: học kinh doanh mới là niềm đam mê của mình.
Để minh chứng cho điều đó, những năm cấp 3 Hằng cùng chị gái đã kinh doanh thời trang trên mạng, đồng thời 2 chị em tích cực đi bán ở các hội chợ để tìm cơ hội kinh doanh. Lợi nhuận đem lại không phải quá cao nhưng với học sinh cấp 3, con số đó không nhỏ. Những tháng đỉnh điểm việc kinh doanh đem về cho Hằng tới 20 triệu đồng.
Kinh doanh đã ăn vào máu của Hằng. Năm 2015, khi Hằng học hết cấp 3, cả gia đình tới Mỹ định cư. Để cả gia đình hoà nhập với cuộc sống mới, Hằng đã phải nghỉ học một năm để cùng bố mẹ quen với môi trường mới, đồng thời giảm bớt gánh nặng kinh tế cho gia đình. Sau một năm sang Mỹ, khi mà bố mẹ cháu đã có công việc ổn định Hằng quyết định đi học lại.
Hằng bắt đầu thay đổi suy nghĩ. Nếu như hồi ở Việt Nam, Hằng chỉ máu kinh doanh, học tập chỉ vừa đủ để không tụt hơn so với các bạn thì khi sang Mỹ khi biết gia đình không có điều kiện chi trả học phí trong khi chỉ có học là con đường duy nhất nếu muốn tiếp tục cuộc sống ở Mỹ. Hằng bắt đầu lao vào học tập.
Quá trình học tập, Hằng nhận thấy môn Statistics (tạm dịch là môn thống kê) làm mình thích thú. Bên cạnh đó, giáo viên dạy môn này cũng tạo cảm hứng cho Hằng. Cô giáo đã đề nghị Hằng cùng làm một nghiên cứu nhỏ liên quan đến vấn đề vô gia cư và thời tiết. Hằng lập tức đồng ý. Hằng cùng cô tìm thông tin và lập ra một dự án tên là "homelessness and weather" rồi nộp cho Massachusetts Undergraduate Conference.
Một cô gái Việt Nam bé nhỏ mới sang Mỹ nhưng đã làm được một việc đầy ý nghĩa. Hằng dự định sẽ tích cực làm việc và thu thập đủ kinh nghiệm ở Mỹ để khi cơ hội sẽ quay về quê hương mở công ty tài chính của riêng mình.
GIA HUY
Theo laodong.vn
Việt Nam có tiến sĩ đầu tiên về quần vợt Bảo vệ thành công luận văn Tiến sĩ về công trình nghiên cứu ứng dụng một số phương tiện bổ trợ chuyên môn cho sinh viên chuyên sâu ngành quần vợt, ông Trần Trọng Anh Tú đã trở thành tiến sĩ khoa học đầu tiên tại Việt Nam về các phương pháp ứng dụng thực hành của bộ môn thể thao này. Là...