ĐH ngoài công lập không “mặn mà” dạy môn Khoa học xã hội và nhân văn?
Nguồn nhân lực Khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập toàn cầu gặp nhiều thách thức mặc dù đóng vai trò vô cùng quan trọng. Sự biến đổi của thang giá trị khiến các môn học này bị “coi rẻ”, thậm chí bị phân biệt đối xử ở các trường đại học ngoài công lập.
Trường ĐH Văn Hiến vừa phối hợp với Trường ĐH Thủ Dầu Một tổ chức hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề “Phát triển nguồn nhân lực Khoa học Xã hội và Nhân văn (KHXH & NV) trong bối cảnh hội nhập toàn cầu”.
Gần 100 đại biểu tham dự hội thảo về chủ đề “Phát triển nguồn nhân lực Khoa học Xã hội và Nhân văn trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.
Tại hội thảo, các chuyên gia đã bàn luận về những vấn đề liên quan, tìm hiểu vai trò và tầm quan trọng của nguồn nhân lực KHXH & NV trong bối cảnh hội nhập toàn cầu. Đồng thời cũng đóng góp các giải pháp nhất định để phát triển nguồn nhân lực KHXH & NV…
Các đại biểu đều nhận định rằng các nước phát triển trên thế giới muốn phát triển bền vững thì không chỉ chú trọng duy nhất đến kinh tế, hay kỹ thuật – công nghệ hay chỉ tập trung vào lợi nhuận, tài chính… mà còn yếu tố con người, tính nhân văn của quá trình phát triển. Tuy nhiên điều đáng lo khi ở Việt Nam là các giá trị về KHXH & NV đang bị xem nhẹ.
Trong bài tham luận của mình, ThS Lê Thu Hằng, Trường ĐH Văn Lang nêu lên những khó khăn, thách thức của giảng viên dạy các môn KHXH & NV tại các trường ĐH ngoài công lập hiện nay. Trước hết, phải kể đến đó là sự biến đổi của thang giá trị ảnh hưởng đến cách nhìn nhận, đánh giá của xã hội về lĩnh vực này. Tâm lý xã hội đề cao vấn đề lợi ích, sống thực tế, thiết thực thậm chí là thực dụng hơn. Ngày càng ít người giỏi lựa chọn và tham gia lĩnh vực này, vì lẽ đó, mà nguồn nhân lực trong lĩnh vực này ngày càng trở nên thiếu hụt, nhất là những người giỏi.
“Trong khi đó, nhiều trường ĐH ngoài công lập cũng không mặn mà với việc triển khai giảng dạy một số môn học KHXH & NV, hoặc một số trường chỉ làm theo kiểu chiếu lệ vì bị bắt buộc. Từ đó, đội ngũ giảng viên không được quan tâm, tạo điều kiện trong quá trình giảng dạy, nghiên cứu. Thậm chí, có nơi giảng viên còn bị phân biệt đối xử từ chính người lãnh đạo, quản lý cho đến đồng nghiệp của mình”, bà Hằng đánh giá.
Không những vậy, giảng viên dạy các môn KHXH & NV, đặc biệt các môn chung như những môn lý luận chính trị tại các trường ĐH ngoài công lập phải đối diện với tình trạng lớp đông, phương tiện hỗ trợ không có. Những môn học bị cho là “vô bổ”, khô khan, nhàm chán,… nhưng lại bố trí số lượng rất đông sinh viên trong một lớp học lên đến vài trăm sinh viên là bình thường.
Video đang HOT
Bà Hằng cho rằng điều này khiến giảng viên không kiểm soát, không tương tác một cách tối ưu với sinh viên của mình cũng như càng vô cùng khó khăn nếu giảng viên muốn cải tiến phương pháp giảng dạy, áp dụng một phương pháp mới,… Vì vậy, chất lượng giảng dạy những môn học này khó mà có thể nâng lên, khó mà có thể làm thay đổi nhận thức của người học về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của nó.
Các nhà khoa học về lĩnh vực KHXH&NV nêu các ý kiến đóng góp các giải pháp nhất định để phát triển nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn
Ths Thu Hằng cũng chỉ ra những tác động từ việc biến đổi hệ giá trị, không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến việc giảng dạy và giảng viên trường đại học mà còn tác động rất lớn đến hệ thống giáo dục từ bậc phổ thông. Thực tế hiện nay, ở nhiều trường phổ thông cũng xem nhẹ những môn này nên tình trạng “dạy cho có” diễn ra một cách phổ biến. Thêm vào đó, giáo viên KHXH thì yếu chuyên môn, thiếu kỹ năng, phương pháp giảng dạy, thậm chí không tâm huyết với công việc của mình bởi chính họ cũng là kết quả của quá trình nhận thức và đào tạo, bồi dưỡng không đến nơi đến chốn.
Chính những điều đó đã tác động rất lớn đến học sinh và xã hội. Những môn KHXH dần trở thành “dư thừa” trong chương trình, từ đó, hình thành suy nghĩ “học cho có”, “dạy cho xong”. Và số học sinh yêu thích những môn này ngày một thưa thớt đi. Thực tế đó đã tạo ra hệ quả nặng nề khi học sinh bước lên giảng đường đại học và đối mặt với các môn KHXH & NV là tâm lý ngán, sợ, cảm thấy nặng nề, vô bổ.
Bên cạnh đó, điều các giảng viên trăn trở không phải vì không đủ kiến thức để trình bày vai trò, ý nghĩa, giá trị của những môn học này với các sinh viên của mình mà có lẽ giảng viên đang bị thiếu một “điểm tựa” vững chắc để làm điều đó. “Điểm tựa” ở đây chính là cách nhìn nhận, đánh giá đúng đắn của xã hội về vấn đề này.
Ths Lê Thu Hằng đề xuất 3 giải pháp để tháo gỡ. Trong đó, bà cho rằng cần có cơ chế, chính sách rõ ràng, công bằng, bình đẳng giữa các ngành, nghề, lĩnh vực, giữa các giảng viên ở các khối ngành khác nhau, giữa hệ thống trường đại học công lập và ngoài công lập. Tạo môi trường để giảng viên hành nghề, sinh viên khi tốt nghiệp. Và quan trọng là bản thân giảng viên phải có ý thức và quyết tâm cao trong việc trau dồi kiến thức, rèn luyện kỹ năng đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đang đặt ra.
Còn theo Ths Đào Quang Bình (Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ) và Ths Nguyễn Thị Hồng Thủy (Trường ĐH Văn Hiến), để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển khối ngành KHXH & NV, định hướng phát triển KHXH & NV cần đi trước một bước so với các ngành khác, vì đây là ngành mang tính dự báo và đòi hỏi tính tổng hợp cao. Cần thay đổi cả về chất và lượng trong việc đầu tư cho KHXH & NV. Đầu tư và nâng cao chất lượng nguồn lực cho khoa học xã hội hiện nay cấp thiết hơn bao giờ hết, cần thay đổi quan niệm về đầu tư cho KHXH & NV. Trong tương lai cần có cơ chế cụ thể và rõ ràng cho khối ngành khoa học xã hội. Như vậy, KHXH & NV sẽ tự vận hành và phát huy được giá trị của mình cho xã hội. Ngược lại, KHXH & NV cần phải đóng góp nhiều hơn nữa vai trò phản biện xã hội, cũng như xuất hiện trên mọi mặt của các lĩnh vựa phát triển và thể hiện được “tiếng nói” của mình.
Lê Phương
Theo Dân trí
Vì sao khoa học xã hội và nhân văn ít có công bố quốc tế?
Theo PGS Mai Quỳnh Nam, lý do quan trọng nhất là người làm khoa học đã không chịu đọc, nghiên cứu kỹ lưỡng các tạp chí quốc tế uy tín.
Trong phiên họp đánh giá xét chọn đề tài nghiên cứu cơ bản thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn năm 2018 vừa được Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (Nafosted) tổ chức, vấn đề công bố quốc tế lại được xới lên.
Lý do là nhiều lĩnh vực không có hồ sơ đủ điều kiện tiếp nhận tài trợ do không có bài báo công bố quốc tế. Trong khi theo quy định, một trong các tiêu chí để xét duyệt là hồ sơ có kết quả nghiên cứu chuyên môn phù hợp được công bố trên tạp chí khoa học quốc tế uy tín (với khoa học tự nhiên và kỹ thuật), trên tạp chí quốc tế uy tín hoặc sách chuyên khảo (với lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn) trong 5 năm gần nhất.
Chất lượng các nghiên cứu luôn là tiêu chí quan trọng để có thể công bố quốc tế. Ảnh: Loan Lê.
Giáo sư Phạm Quang Minh, Hiệu trưởng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn cho biết, nhà khoa học trong lĩnh vực này thường công bố trên tạp chí và sách. Hiện số lượng tạp chí hạn chế, yêu cầu khác nhau. Vì thế ở nhiều nước, các nhà khoa học thường tập hợp bản thảo để xuất bản thành sách sau hội thảo, tọa đàm. Nhưng ở Việt Nam, số lượng xuất bản sau nghiệm thu rất kém.
"Năm 2017, khoảng 25-30% số lượng công trình đã nghiên cứu không xuất bản vì không có tiền, nghiên cứu xong để đó", giáo sư Minh nói và đề nghị Quỹ Nafosted có quy định về việc đăng ký xuất bản sau khi nghiệm thu đề tài.
Ông Minh cũng lo lắng có hội đồng chỉ 1-2 hồ sơ đầu vào thì khó nói chuyện lựa chọn. "Nếu có nhiều hồ sơ, sự từ chối nhiều hơn, sẽ có nhiều lựa chọn tốt. Các cơ sở đào tạo ngành xã hội nhân văn nếu không đồng hành sẽ rất khó cải thiện tình trạng này", giáo sư Minh thẳng thắn.
Phó giáo sư Mai Quỳnh Nam, nguyên Viện trưởng Nghiên cứu con người (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) cho rằng kỳ vọng có công bố quốc tế, trở thành tác giả quốc tế quá xa vời với lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Lý do "ta muốn làm tác giả quốc tế, nhưng lại không muốn làm công chúng của các công trình quốc tế đã công bố". Chính điều này cản trở việc công bố.
Theo ông Nam, muốn in bài ở tạp chí quốc tế trước tiên phải là người đọc tạp chí đó kỹ lưỡng, biết so sánh vấn đề trong ấn phẩm đó với vấn đề tương tự của tạp chí khác, từ đó chọn xem vấn đề của mình có phù hợp để công bố hay không. Với đòi hỏi khả năng ngoại ngữ, viết sao cho "lọt tai" học giả nước ngoài, đúng thông lệ quốc tế, nhà khoa học Việt Nam ít người làm được.
Phó giáo sư Mai Quỳnh Nam phát biểu tại phiên họp xét duyệt đề tài của Hội đồng Khoa học Xã hội và Nhân văn. Ảnh: Bích Ngọc
Lý giải cho việc ít công bố quốc tế, một số người cho rằng khoa học xã hội và nhân văn có đặc thù. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học phản bác rằng đặc thù chỉ có thể ở một số ngành như pháp luật, khảo cổ..., còn với xã hội học, kinh tế, tâm lý thì không thể, hoặc nếu quá đặc thù thì chẳng có ý nghĩa gì cho khoa học thế giới.
Tiến sĩ Nguyễn Việt Cường, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách công và Quản lý (Đại học Kinh tế quốc dân), người từng công bố hơn 60 bài báo khoa học trên các tạp chí uy tín của quốc tế khẳng định, hiện số lượng công bố của ngành ít là do chất lượng nghiên cứu chưa đạt.
Tiến sĩ Cường phân tích, trong khoa học xã hội và nhân văn, nếu các nhà khoa học vẫn đi theo lối mòn, từ phương pháp nghiên cứu đến cách trình bày không giống với một bài báo quốc tế, vấn đề nghiên cứu chỉ mang tính chất mô tả kiểu như người đồng bào dân tộc sinh sống ra sao, đặc điểm thế nào... thì không phải là đóng góp hữu ích cho khoa học. Để xuất bản trên tạp chí quốc tế, nghiên cứu đó phải đưa ra một phương pháp mới, có phát hiện mới... Đây cũng chính là hạn chế khiến các nghiên cứu trong nước hiện khó xuất bản ở tạp chí quốc tế.
"Về lâu dài chắc chắc việc công bố quốc tế của ngành khoa học xã hội và nhân văn phải được đẩy mạnh hơn. Chừng nào các tạp chí khoa học trong nước chưa rõ ràng tiêu chí, chất lượng xét duyệt còn dễ dãi thì việc công bố quốc tế vẫn là điều kiện tiên quyết để khẳng định chất lượng nghiên cứu", tiến sĩ Cường nói.
Bích Ngọc
Theo vnexpress.net
Giáo dục bền vững ảnh hưởng thế nào tới sự phát triển của trẻ Mỗi cá nhân sẽ được học cách tự giải quyết vấn đề liên quan đến khoa học, xã hội... để có thể thích ứng với nhịp sống hiện đại. Giáo dục bền vững được nhắc thường xuyên trong thời gian gần đây khi thế giới có nhiều biến đổi về môi trường và xã hội. Theo khái niệm này, quá trình giáo dục...