Đề xuất những giải pháp căn cơ
Sau loạt bài “Bài toán tăng học phí và công bằng trong giáo dục” (Báo SGGP đăng vào các ngày 15, 16 và 17-6), nhiều nhà quản lý, chuyên gia giáo dục đã có ý kiến phản hồi, kiến nghị về những giải pháp cho bài toán học phí và chất lượng.
Sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM (trường tự chủ) trong giờ học tại phòng học số
GS LÊ VINH DANH, Hiệu trưởng Trường Đại học (ĐH) Tôn Đức Thắng: Bao cấp phải đúng đối tượng
Một số văn bản quy phạm pháp luật hiện hành và cả Luật Giáo dục ĐH có quy định những ngành nghề, trường ĐH đặc thù nào thì được Nhà nước bao cấp. Như vậy, việc bao cấp vẫn còn, nhưng phải đúng đối tượng. Phụ huynh muốn con em mình được bao cấp thì phải chọn học ở các ĐH này.
Việc bao cấp chỉ nên thực hiện theo chương trình, theo dự án, có theo dõi quá trình thực hiện để bảo đảm việc hoàn trả sản phẩm (cả giáo dục và khoa học – công nghệ). Nghĩa là bao cấp có điều kiện. Lúc đó, chúng ta mới hy vọng các trường được bao cấp nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động.
Còn với những ĐH tự chủ, trách nhiệm của Nhà nước là mở rộng tín dụng sinh viên tối đa, cân nhắc thời gian ân hạn trả nợ không phải trả lãi, đơn giản hơn nữa thủ tục ngân hàng, để người học có hoàn cảnh khó khăn, người dễ bị thương tổn có thể tiếp cận dễ dàng và tự đầu tư cho việc học.
Nhưng nói đến việc “thu phí phù hợp với chất lượng giáo dục của trường” thì lấy cái gì mà đo? Nước mình thì chưa thấy, hoặc có những cách tính khá chi tiết nhưng không hoàn toàn hợp lý.
Nước ngoài thì họ thực tế hơn. Các ĐH của Anh, sau nhiều năm thống kê và đánh giá, tự xác định: học phí bậc ĐH trung bình/sinh viên/năm học đầu = tiền lương cả năm đầu tiên từ công việc chính thức mà người tốt nghiệp hạng trung bình từ trường đó tự tìm việc và được nhận.
Video đang HOT
Với cách tính này, giả định một ĐH Việt Nam có người học tốt nghiệp hạng trung bình, xin được việc làm với mức lương khởi điểm là 8 triệu đồng/tháng cho năm đầu tiên, thì tổng tiền lương năm đầu sẽ khoảng 100 triệu đồng/năm. Lúc đó, trường ĐH này có cơ sở để thu học phí từ người học mức phí suýt soát 100 triệu đồng/năm học.
Lập luận của họ về cách tính trên như sau: (1) học ĐH là một dự án đầu tư; (2) có thể vay tiền để đầu tư nếu không có tiền túi hay được tài trợ; (3) cần 3 năm đi làm để hoàn vốn đầu tư (tương đương 3 năm học ĐH ở Anh), tỷ lệ hoàn vốn này là chấp nhận được; (4) muốn vừa hoàn vốn đầu tư mà vẫn có tiền để trang trải sinh hoạt thì phải đi làm thêm việc thứ 2, hoặc tốt nghiệp khá, giỏi hơn để được trả lương cao hơn mức trung bình nói trên, hoặc phải học ở những ĐH danh tiếng hơn để không những dễ xin việc mà còn được lương khởi điểm cao hơn…
Hệ quả của logic này là người học luôn phải cố gắng học giỏi hơn, và trường ĐH phải cố gắng nâng hạng liên tục để người học của họ dễ xin việc và có lương/năm học cao hơn học phí/năm học.
Th.S LÊ MINH TIẾN, Trường ĐH Mở TPHCM: Tăng học phí là xu hướng khi ĐH chuyển qua tự chủ
Ngày nay, nhiều tầng lớp yếu thế trong xã hội có cơ hội tiếp cận và thụ hưởng nền giáo dục bậc cao. Tuy nhiên, theo xu thế phát triển, mọi thứ gần như đều trở thành hàng hóa và giáo dục ĐH cũng không thoát khỏi tình trạng “bị hàng hóa hóa”, tức biến thành một loại hàng hóa theo kiểu thuận mua vừa bán.
Khi đó, các chính phủ dần dần rút khỏi việc trợ cấp cho bậc đào tạo này và để cho thị trường quyết định. Khi giáo dục ĐH tuân theo cơ chế thị trường theo kiểu “tính đúng, tính đủ” thì việc tăng học phí là điều khó tránh khỏi, và đương nhiên sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận bậc đào tạo này. Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới đã chứng minh điều đó.
Giáo dục ĐH tại Việt Nam trong khoảng 5 năm vừa qua cũng theo xu hướng tăng học phí và đây có lẽ sẽ là xu hướng chủ đạo trong thời gian tới, khi các trường ĐH đều chuyển sang cơ chế tự chủ tài chính. Tuy nhiên cho đến hiện nay, hình như vẫn chưa có nghiên cứu nào xem xét xem cơ cấu kinh tế – xã hội của các sinh viên đang theo học tại các trường tự chủ tài chính là như thế nào. Liệu tỷ lệ sinh viên xuất thân từ các tầng lớp có thu nhập thấp chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong cơ cấu sinh viên của một trường ĐH… Theo quan sát của chúng tôi, việc tăng học phí chưa tác động đến tỷ lệ đăng ký học ĐH nhưng có lẽ đã làm thay đổi cơ cấu của sinh viên xét về mặt kinh tế – xã hội mà theo đó, giáo dục ĐH hình như chỉ phù hợp với các em học sinh có điều kiện kinh tế khá giả mà thôi.
TS HOÀNG NGỌC VINH, Thành viên Tổ tư vấn Ủy ban Đổi mới giáo dục quốc gia: Cần chính sách mới về tăng tín dụng cho sinh viên
Tự chủ giáo dục ĐH thì nhà trường có quyền xác định mức học phí theo nguyên tắc tính đúng tính đủ, Nhà nước không cấp ngân sách theo cơ chế trước kia nữa nên rất cần có chính sách mới về tăng tín dụng cho sinh viên vay để học. Tùy theo hoàn cảnh gia đình và ngành học để xác định mức vay tín dụng ưu đãi, không phải ngành nào cũng như ngành nào.
Mặt khác, nhà trường cần có trách nhiệm giải trình về tài chính và chất lượng cũng như cải thiện chất lượng hiệu quả quản lý. Tinh giản chương trình, loại bỏ những nội dung thừa trong từng bài học và từng chương trình, ứng dụng công nghệ dạy học, quản lý chất lượng và tránh hội họp, tiệc tùng gây lãng phí. Câu hỏi tăng học phí liệu chất lượng có tăng, là vấn đề nhà trường cần trả lời bằng hành động và kết quả cụ thể.
Với sinh viên, cần hiểu rõ thông tin về ngành học và cùng chia sẻ gánh nặng tài chính với nhà trường, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ học tập và cũng nên có ý kiến với cơ quan quản lý nếu những cam kết về chất lượng của nhà trường bị phá vỡ.
Bài toán tăng học phí và công bằng trong giáo dục đại học - Bài 3: Chất lượng có tăng theo học phí?
Với mức học phí hiện nay, nói chung, các trường công lập đều khó khăn trong việc duy trì và phát triển đội ngũ, tăng cường trang thiết bị cơ sở vật chất, cũng như cải tiến chương trình đào tạo.
Do vậy, việc xã hội hóa phát triển nguồn lực bằng nhiều cách, trong đó có việc tăng học phí là tất yếu. Thế nhưng, liệu có phải học phí cao sẽ giải quyết được ngay bài toán chất lượng giáo dục đại học (ĐH), hay cần phải có một giải pháp tổng thể kèm theo để đạt được mục tiêu như kỳ vọng?
Sinh viên ngành y khoa Trường ĐH Y Dược TPHCM trong giờ học thực hành
Lối đi tất yếu
PGS-TS Nguyễn Hội Nghĩa, nguyên Phó giám đốc ĐH Quốc gia TPHCM, nhìn nhận: "Trên thế giới, có thể có phương thức các trường buộc phải tự chủ tài chính cao, cũng có quốc gia mà ở đó, trường được nhà nước cấp kinh phí tốt, tất cả tùy thuộc chính sách tài lực, thuế má... Nhìn vào thực tế ở Việt Nam, việc tăng học phí là khó tránh khỏi, nếu muốn duy trì và cải tiến chất lượng thực sự.
Học phí của các trường đại học công lập hiện nay, nếu so sánh với các ĐH tư thục, với các trường nước ngoài (gần nhất là ở Đông Nam Á), hoặc so với học phí của các bậc học thấp hơn ở Việt Nam thì học phí ĐH nhìn chung là tương đối thấp. Các trường ĐH công lập, muốn bảo đảm chất lượng đầu ra trong bối cảnh tăng cường tự chủ về mặt tài chính, trong cả chi thường xuyên và chi đầu tư, cần theo nguyên tắc xác định học phí theo hướng tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo.
Tất nhiên, việc này cần có lộ trình và tuân thủ theo quy định của pháp luật, cần có trách nhiệm và sự nỗ lực không chỉ của các trường, mà còn cả của cấp quản lý cao hơn. Mặt khác, việc cấp học bổng, miễn giảm học phí, hỗ trợ tài chính cũng đã có quy định, các trường cần tuân thủ, thậm chí sáng tạo thêm, nhằm vừa có được tài lực, đồng thời thu hút hoặc bảo đảm cơ hội cho những người học có năng lực tốt vào học tại trường. Học phí cao hơn, nhưng việc hỗ trợ cũng sẽ cao hơn tương ứng, ý tưởng là hướng tới công bằng xã hội chứ không phải cào bằng đối với người học. Cần có hệ thống ngân hàng giúp người học được vay tiền để trang trải học phí, sẽ trả sau khi ra trường làm việc.
TS Hoàng Ngọc Vinh, thành viên tổ tư vấn Ủy ban Đổi mới giáo dục và đào tạo quốc gia, nhìn nhận, ai cũng hiểu rằng, học phí giáo dục ĐH thấp gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội và cho chính nhà trường. Chúng ta không thể cung cấp dịch vụ chất lượng cao với chi phí thấp được. Vì với nguồn lực tài chính eo hẹp, lại muốn nhiều người được đi học và chất lượng được đảm bảo là bất khả thi.
Với học phí quá thấp, nhà trường sẽ khó có điều kiện thu hút, trả lương cho đội ngũ giảng viên, giữ chân họ đóng góp cho nhà trường. Học phí thấp dẫn tới quy mô phải tăng để lấy số lượng bù cho chất lượng và sản phẩm, có thể không đáp ứng yêu cầu người sử dụng. Những lĩnh vực như y khoa, giáo dục, luật và nhiều lĩnh vực khác chất lượng sinh viên tốt nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với xã hội. Học phí còn có vai trò là công cụ điều tiết lại thị phần đào tạo.
Trường nào và ngành nào lấy học phí cao thì người học sẽ chuyển sang sử dụng dịch vụ ở những nơi có học phí thấp, chưa cần quan tâm đến chất lượng miễn là có mảnh bằng để đi làm nghề. "Một số nghiên cứu cho rằng, học phí quá thấp ở các trường công lập tạo nên sự cạnh tranh không bình đẳng giữa trường công và trường tư, cùng với việc người học xem nhẹ trách nhiệm, nghĩa vụ học tập của mình. Chi phí thấp nên người ta có xu hướng không tiếc những khoản tiền nhỏ nhoi như mớ rau, con cá mua ngoài chợ", TS Hoàng Ngọc Vinh ví von.
Đâu chỉ đơn thuần học phí cao
Với trường công lập đã tự chủ hoàn toàn (chi thường xuyên và cả đầu tư xây dựng cơ bản) nhưng học phí vẫn theo khung Nghị định 86, GS Lê Vinh Danh, Hiệu trưởng Trường ĐH Tôn Đức Thắng, cho biết: "Trong trường hợp của trường tôi, với mức học phí hiện nay, về cơ bản là đủ để trang trải chi phí (gần 16 triệu đồng/sinh viên/năm) mà vẫn bảo đảm được chất lượng đầu ra, đáp ứng yêu cầu xã hội "nếu" quản lý hiệu quả, công bằng và loại bỏ được lãng phí dưới mọi hình thức (chủ trương thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đang được Đảng và Nhà nước đẩy mạnh thực hiện). Tuy có hơi chật vật vì phải tự trang trải cả nợ vay đầu tư. Tôi phải dùng chữ "nếu", vì nó cực kỳ quan trọng. Không quản lý hiệu quả và kiên định chống lãng phí, thì chỉ nội việc "chia chác nhau một cách hợp pháp, đúng quy chế" cũng đã hết tiền tích lũy. Còn đâu mà đầu tư cho cơ sở vật chất, trang thiết bị, nâng cao thu nhập để tuyển thầy giỏi và thay đổi phương pháp giảng dạy...".
Một khi có được chữ "nếu" trên, mức học phí của Nghị định 86 đủ bảo đảm chi phí đào tạo, nhất là đối với những trường công đã được nhà nước đầu tư sẵn từ bao nhiêu năm trước, đến nay về mặt bằng, xây giảng đường, trang bị phòng thí nghiệm, thiết bị, tuyển, đào tạo đội ngũ nhân sự, đã có thương hiệu xã hội... "Trường tôi hoàn toàn không có những điều kiện này ngay từ ban đầu, phải tự lo mọi thứ bằng nguồn tự tích lũy, mà còn làm được, thì tại sao các ĐH công lập tự chủ khác có sự đầu tư sẵn như thế trong 30, 40 năm qua, lại không làm được?" - GS Lê Vinh Danh nêu vấn đề.
Mặc dầu vậy, GS Lê Vinh Danh lại cho rằng, cần hiểu minh bạch "về cơ bản là đủ" không có nghĩa đó là cái đủ để bảo đảm sự phát triển bền vững về giáo dục và khoa học - công nghệ cho một ĐH tự chủ. ĐH tự chủ từng bước phải tự lo cho mình toàn bộ, kể cả chi đầu tư chứ không phải chỉ chi thường xuyên.
Chi thường xuyên tự chủ thì dễ, nhưng chi đầu tư để liên tục thay đổi trang thiết bị, phòng thí nghiệm, công cụ - dụng cụ đã cũ hoặc lạc hậu đến mức không còn phù hợp để giảng dạy kiến thức mới. Còn trang thiết bị "hạng nặng", chuyên sâu để mở rộng nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu công nghệ một cách có hệ thống, nhằm tạo được trường phái nghiên cứu, tiến đến có những thành tựu lớn tầm quốc tế, đào tạo ra những con người tinh hoa, thiên tài... thì mức học phí như Nghị định 86 không bao giờ đủ.
Nói ngắn gọn, mức phí này chỉ đủ để trang trải cho hoạt động giáo dục và khoa học - công nghệ mức độ cơ bản. Chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo từ mức phí này chỉ có thể đáp ứng tốt nhu cầu hiện tại của xã hội. Đòi hỏi hơn nữa không thể được!
Theo PGS-TS Trần Diệp Tuấn, Hiệu trưởng Trường ĐH Y Dược TPHCM, trong khi ngân sách nhà nước chưa thể choàng gánh nổi thì hãy huy động nguồn lực xã hội. Cái đích mà chúng ta muốn nhắm đến, không chỉ là dẫn đầu cả nước về đào tạo ngành y, mà phải hướng đến cạnh tranh nguồn nhân lực y tế với thế giới. Nếu chi phí đào tạo quá thấp thì chất lượng đào tạo không thể theo kịp với thay đổi của thế giới. Đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại, chương trình mới, phương pháp giảng dạy mới mà học phí thấp thì không có cách nào làm được...
Chương trình chất lượng cao: Phải đúng như tên gọi Thông tư 23/2014/TT-BGDĐT khẳng định mục đích đào tạo chất lượng cao (CLC) trình độ ĐH là: "Nâng cao chất lượng đào tạo trình độ ĐH ở những cơ sở đào tạo có đủ điều kiện nhằm đào tạo nguồn nhân lực có tính cạnh tranh cao trên thị trường lao động trong thời kỳ hội nhập kinh tế khu vực và thế...