Để trống ghế giữa hạn chế COVID-19 lây lan trên máy bay
Một số mô hình nghiên cứu của Mỹ cho thấy để trống hàng ghế giữa trên máy bay có khả năng làm giảm nguy cơ lây nhiễm SAR-CoV-2. Tuy nhiên, các hãng hàng không lại không làm thế.
Khử trùng trên máy bay trong mùa COVID-19. Ảnh: NBC News
Nghiên cứu do Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) và Đại học Bang Kansas thực hiện vào thời điểm hầu như không có mấy chuyến bay bỏ trống hàng ghế giữa. Tại Mỹ, chỉ có hãng Delta tiếp tục để trống hàng ghế giữa và đã thông báo sẽ chỉ duy trì đến ngày 30/4. CDC khuyến cáo những người chưa được tiêm phòng COVID-19 không nên đi máy bay khi không cần thiết.
Nghiên cứu mới được công bố bắt nguồn từ năm 2017, liên quan đến nghiên cứu bệnh cúm vào thời điểm đó. Các nhà nghiên cứu của Đại học Bang Kansas đã thiết lập các cabin máy bay giả chứa ma-nơ-canh với thân nhiệt giống con người để mô phỏng sự lây lan của virus trong máy bay.
Virus MS2, một loại virus RNA tấn công một số vi khuẩn nhất định nhưng vô hại đối với con người, được phát tán vào không khí của các ca-bin giả. Virus này thường được sử dụng để thay thế cho các mầm bệnh nguy hiểm lây lan qua các giọt bắn nhỏ và lơ lửng trong không khí như cách thức lây lan của COVID-19.
Thông qua việc sử dụng dữ liệu từ các thí nghiệm mô phỏng đối với ca-bin một lối đi và hai lối đi, các nhà nghiên cứu đã tạo ra một mô hình máy tính để phân tích mức độ giảm thiểu khả năng lây nhiễm SAR-CoV-2 trong khoảng cách từ người bệnh. Các nhà nghiên cứu cũng tiến hành nghiên cứu mức độ lây nhiễm trong trường hợp các ghế giữa bị bỏ trống hoặc có người ngồi.
Dựa trên các tình huống đặt ra, kết quả cho thấy tỉ lệ lây nhiễm giảm từ 23% – 57% khi các ghế giữa bị bỏ trống. Con số 23% xảy ra khi một hành khách mắc COVID-19 ngồi cùng hàng ghế với một hành khách không bị bệnh. Việc để một ghế trống giữa hai người làm giảm gần một phần tư nguy cơ hành khách không bị bệnh tiếp xúc với virus.
Các nhà nghiên cứu cũng lập ra mô hình giảm thiểu rủi ro cho toàn bộ khoang 120 người khi một, hai hoặc ba người trên máy bay bị nhiễm SARS-CoV-2 và các ghế giữa bị bỏ trống. Họ phát hiện ra rằng tùy thuộc vào số lượng người bị nhiễm bệnh, việc để trống ghế giữa làm giảm nguy cơ tiếp xúc với virus từ 35% – 39,4%.
Trên thực tế, việc bỏ trống ghế giữa làm giảm số người có khả năng lây nhiễm trên máy bay lên đến 33%, so với khi máy bay kín chỗ. Để tránh làm sai lệch kết quả về khoảng cách, các nhà nghiên cứu chỉ đặt những hành khách có khả năng lây nhiễm ở lối đi hoặc ghế giữa trong mô hình này. Do đó, việc giảm khả năng lây nhiễm có liên quan cụ thể đến các ghế trống, không liên quan tới việc ít hành khách hơn về tổng thể.
Video đang HOT
Cuối cùng, các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm một kịch bản trong đó 9 hành khách lây nhiễm được sắp xếp rải rác giữa ba hàng đầy đủ, so với kịch bản ghế giữa bị bỏ trống và có 6 hành khách lây nhiễm trong tổng số 12 hành khách ở ba hàng. Kịch bản này đo được các tác động kết hợp của khoảng cách và việc giảm sức chứa. Kết quả cho thấy khả năng tiếp xúc với virus giảm 57% khi bỏ trống ghế giữa. Các nhà nghiên cứu cũng lưu ý rằng phơi nhiễm không giống như lây truyền một bệnh nhiễm trùng thực sự, nhưng phơi nhiễm là điều kiện tiên quyết để lây lan virus.
Mặc dù có cảm giác rằng lên máy bay đồng nghĩa với việc hít thở chung bầu không khí với hơn 100 người lạ có khả năng nhiễm bệnh, nhưng thực tế, qua một vài dãy ghế, hệ thống thông gió trên máy bay sẽ thu gom và lọc không khí. Điều này có nghĩa là hành khách chỉ thực sự phải chia sẻ phần lớn không khí với những người ngồi gần.
Việc phát hiện ra các vấn đề khoảng cách lặp lại dữ liệu thực tế về các đợt bùng phát dịch bệnh trên máy bay cho thấy việc ở gần người lây nhiễm hơn có nguy cơ bị nhiễm bệnh cao hơn. Phát hiện trên cũng là những gì đã xảy ra trong các đợt bùng phát dịch thật sự trên máy bay. Tức là ở càng gần người nhiễm virus thì rủi ro nhiễm virus càng cao.
Vì dữ liệu ban đầu trong các mô hình ca-bin được thu thập trước khi bùng phát đại dịch COVID-19, các nhà nghiên cứu đã không kiểm chứng hiệu quả của khẩu trang đối với sự lây lan của virus. Khẩu trang có tác dụng ngăn chặn các giọt bắn hô hấp lớn, không bay xa trước khi rơi xuống, đồng thời giúp ngăn chặn sự lây truyền qua tiếp xúc bằng cách giữ cho tay tránh xa mũi và miệng. Chúng cũng có thể chặn các giọt bắn nhỏ hơn, nhưng kém hiệu quả hơn. Do đó, kết hợp bỏ trống hàng ghế giữa và khẩu trang có khả năng bảo vệ tốt hơn so với việc chỉ đeo khẩu trang.
Tàu ngầm Indonesia có thể được tìm thấy như thế nào?
Mảnh vỡ và vệt dầu loang giúp khoanh vùng khu vực tìm kiếm, cho phép tàu chiến và máy bay dùng sonar để định vị tàu ngầm đang mất tích.
Tham mưu trưởng hải quân Indonesia Yudo Margono hôm nay cho biết lực lượng cứu hộ đã thu được nhiều mảnh vỡ và thiết bị, trong đó có một mảnh ống phóng ngư lôi, từ vị trí lặn cuối cùng của tàu ngầm KRI Nanggala trước khi mất liên lạc.
Hải quân Indonesia đã chuyển trạng thái tìm kiếm từ "tàu ngầm mất tích" (SUBMISS) sang "tàu ngầm chìm" (SUBSINK), cho biết tàu ngầm có thể chìm ở khu vực sâu 850 m ngoài khơi đảo Bali.
Tàu tuần tra Indonesia rời cảng tham gia tìm kiếm KRI Nanggala hôm 24/4. Ảnh: AFP .
Thông báo được đưa ra sau chiến dịch kéo dài nhiều ngày của với hơn 20 tàu hải quân và máy bay quân sự của Indonesia. Mỹ cũng điều máy bay tuần thám biển P-8A Poseidon đến Indonesia hỗ trợ, trong khi Australia đang điều tàu hộ vệ HMAS Ballarat kèm trực thăng săn ngầm MH-60R tới khu vực.
Giới chuyên gia quân sự cho rằng thiết kế chuyên ẩn mình của tàu ngầm cùng địa hình đáy biển phức tạp khiến phát hiện tàu ngầm mất tích luôn là thử thách lớn với mọi lực lượng quân sự trên thế giới, dù đã có nhiều phương án khẩn cấp và cảm biến hiện đại được sử dụng.
Khi xảy ra tình huống khẩn cấp, thủy thủ đoàn tàu ngầm có thể bật thiết bị định vị hoặc thả phao khẩn cấp . Chúng có thể đánh dấu vị trí tàu ngầm để rút ngắn thời gian cứu hộ. Tuy nhiên, các thiết bị này chỉ có thể được kích hoạt nếu các thủy thủ trong tàu ngầm không bị bất tỉnh hoặc thiệt mạng trong tai nạn.
Ở những vùng biển nông, phao khẩn cấp có thể nối với tàu ngầm bằng dây cáp. Chúng sẽ tự tách ra khi tàu ngầm chìm ở các vùng biển sâu, buộc lực lượng tìm kiếm phải tính toán và ước lượng vị trí gặp nạn sau khi xem xét hàng loạt yếu tố như hướng gió và dòng hải lưu.
Trong khi đó, hệ thống định vị phát ra âm thanh đều đặn theo tần số được quy định trước, giúp các hệ thống định vị thủy âm (sonar) thụ động dùng cảm biến âm thanh độ nhạy cao có thể bắt tín hiệu và tìm đến nguồn phát. Tiếng nổ từ ngư lôi hoặc vỏ tàu bị nước biển ép vỡ cũng có thể được sonar thụ động ghi nhận.
Không có dấu hiệu nào cho thấy KRI Nanggala phát ra tín hiệu định vị hoặc âm thanh khi mất tích. Tư lệnh quân đội Indonesia Hadi Tjahjanto cho biết không có vụ nổ nào xảy ra trong quá trình tàu chìm, do thân tàu nứt dần ở một số khu vực thay vì toàn bộ phần vỏ bị nước biển ép vỡ. "Nếu có vụ nổ thì nó đã được phát hiện từ trước", ông nói.
Khoang chứa phao thủy âm trên máy bay P-8A Mỹ. Ảnh: US Navy .
Nếu phương án này không khả thi, lực lượng tìm kiếm sẽ phải sử dụng sonar chủ động . Hệ thống này phát ra âm thanh (tiếng ping) và theo dõi tín hiệu phản hồi từ các chướng ngại vật dưới nước, nó có độ chính xác cao hơn sonar thụ động nhưng phạm vi theo dõi hẹp, tốn thời gian hơn cho cùng một khu vực tìm kiếm.
Máy bay tuần thám P-8A và trực thăng MH-60R có thể thả phao thủy âm xuống khu vực nghi vấn. Chúng có thể được lắp cả sonar chủ động và thủ động để tăng khả năng phát hiện mục tiêu. Sau khi ghi nhận vật thể nghi vấn, phao có thể truyền tín hiệu về máy bay qua cáp hoặc sóng vô tuyến.
Các chiến hạm như HMAS Ballarat được trang bị sonar mũi có cả chức năng chủ động và thụ động, cùng tổ hợp sonar kéo sau đuôi để triệt tiêu tạp âm từ chính tàu chiến.
Bên cạnh đó, máy bay trang bị cảm biến phát hiện dị thường từ trường (MAD) cũng góp phần định vị tàu ngầm trong lòng biển. MAD được thiết kế để phát hiện đột biến trong từ trường tự nhiên của Trái Đất, cho thấy sự hiện diện của một khối kim loại lớn dưới biển như tàu ngầm.
Thiết bị này xuất hiện trên máy bay săn ngầm P-3C Orion của Mỹ và nhiều nước đồng minh, nhưng không được trang bị cho dòng P-8A do độ cao hoạt động của nó lớn hơn nhiều so với P-3C.
Hệ thống MAD ở chót đuôi của chiếc P-3C Mỹ. Ảnh: Plane Spotters .
Những phương án này chỉ có thể được sử dụng khi đã khoanh vùng được phạm vi tìm kiếm. Lực lượng cứu hộ thường bắt đầu tại vị trí liên lạc cuối cùng trước khi tàu ngầm mất tích, kết hợp với lộ trình dự kiến và điều kiện môi trường như gió, hải lưu để xác định khu vực triển khai. Mảnh vỡ và vệt dầu loang là những yếu tố có thể giúp nhanh chóng khoanh vùng.
"Tìm kiếm những thứ chìm xuống biển là thử thách không nhỏ. Rất khó để phát hiện thân tàu nguyên vẹn giữa các thực thể dưới đáy biển. Đó là chưa kể tới trường hợp thân tàu bị ép nát và phá hủy ở độ sâu lớn, điều xảy ra khi chiếc ARA San Juan của Argentina chìm xuống vùng nước sâu hơn 900 m ở Đại Tây Dương năm 2017", James Goldrick, giảng viên ngành Chính sách và Chiến lược Hàng hải thuộc Đại học quốc gia Australia, nhận xét.
Trinh sát cơ Mỹ giám sát Trung Quốc diễn tập trên Biển Đông Trinh sát cơ RC-135W của Mỹ bay qua khu vực Biển Đông và giám sát quân đội Trung Quốc diễn tập bắn đạn thật tại đây. Trinh sát cơ RC-135W và một máy bay tuần thám săn ngầm P-8A của Mỹ hôm 21/4 tuần tra tại Biển Đông trong lúc quân đội Trung Quốc tổ chức diễn tập bắn đạn thật ở khu...