Dạy thêm phải nộp thuế
Lần đầu tiên, Bộ GD&ĐT đặt vấn đề trách nhiệm thực hiện chính sách thuế của người dạy thêm vào một dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Nhiều người cho rằng vấn đề này được đặt ra xuất phát từ thu nhập cao nhờ dạy thêm của giới giáo viên nhưng cũng hồ nghi tính khả thi của quy định.
Giàu nhờ dạy thêm
Cô Th. vốn là một giáo viên dạy Toán ở một tỉnh vùng Đông Bắc, chồng làm công chức một cơ quan nhà nước ở Hà Nội. Cách đây hơn chục năm, cô xin chuyển về một trường THPT ở Hà Nội. Lúc mới chuyển về gia đình cô phải ở nhờ nhà họ hàng. Về sau, cô vay nợ mua được một ngôi nhà nhỏ trong ngõ sâu.
Cách đây hai năm, không những cô trả hết nợ cũ mà còn mua được thêm một căn hộ chung cư 100m2. Trong một buổi gặp mặt bạn bè dịp Tết vừa qua, cô Th. cho biết cuối năm nay cô sẽ mua một chiếc xe hơi để đi dạy cho đỡ khổ!
Khi được bạn bè khen “phát tài” nhờ dạy thêm, cô Th. phân trần: “Trường mình không phải là trường có tiếng tăm, và mình dạy không nhiều lắm nên thu nhập cũng chỉ chừng mực. Đồng nghiệp mình có những người tiền dạy thêm mỗi tháng đủ mua một xe SH!”.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, cô Th. là một trường hợp khá tiêu biểu phản ánh được thực tế đời sống một bộ phận không nhỏ giáo viên các trường học khu vực nội thành và ven đô Hà Nội.
Cô T.H, giáo viên trường THPT Lê Quý Đôn – Hà Nội nhận xét: “Không kể những giáo viên đắt hàng dạy thêm nhờ uy tín cá nhân của mình, đa phần giáo viên thu bộn tiền vì những lý do tế nhị. Vì vậy mới có nghịch lý là giáo viên các cấp học càng thấp càng kiếm được nhiều tiền nhờ dạy thêm.
Giáo viên dạy THPT khó kiếm tiền từ học sinh của mình nhất vì đối tượng học sinh của họ là các em lớn, có nhận thức xã hội tốt khiến giáo viên e dè hơn khi dạy thêm cho chính học sinh của mình. Nhưng nhờ áp lực kỳ thi đại học mà chỉ cần dạy thêm học sinh bên ngoài, giáo viên THPT vẫn có thể giàu có, đặc biệt là giáo viên các môn Toán, Lý, Hóa, Ngoại ngữ. Giáo viên nào không có duyên dạy thêm thì dạy cho các trường dân lập cũng đủ sống dư giả”.
Ngoài giáo viên tiểu học, giáo viên dạy các môn Văn, Toán cấp THCS cũng thuộc diện được xã hội đánh giá là “nhà giàu” trong giới giáo viên. Với những trường tiếng tăm và lớp chọn của những trường thường thì “mùa thu hoạch” đến với các giáo viên này là quanh năm. Với những lớp thường của trường thường thì “mùa thu hoạch” chỉ đến khi các thầy, cô dạy học sinh lớp 9.
“Từ khi vào học lớp 6 tới giờ 60 bạn lớp cháu đều đặn học thêm các cô tuần 2 buổi, năm nay lên lớp 8 thì tuần 3 buổi. Các cô Toán, Lý, Hóa, Văn, Anh chia lớp học làm đôi, học hai ca, học phí 30.000 đồng/ học sinh/ ca (2 tiết), chưa kể tiền thuê phòng học. Riêng cô chủ nhiệm dạy mỗi nhóm hai ca. Vị chi mỗi tháng cô thu từ lớp cháu khoảng 9 triệu đồng. Ngoài ra cô còn dạy chính khóa các lớp khác nên cũng dạy thêm luôn cho các lớp đó”, một học sinh trường THCS Giảng Võ, quận Ba Đình kể.
Vấn nạn dạy thêm, học thêm đè nặng trên đôi vai trẻ thơ.
Video đang HOT
Đánh thuế thu nhập: khó!
Dù nguồn thu đầy tiềm năng như vậy nhưng nhiều giáo viên cho rằng khái niệm thuế thu nhập xa lạ với họ. “Tôi dị ứng với việc thu tiền trực tiếp từ học trò nên ngoài dạy chính tôi dạy thêm ở hai trường công lập.
Việc thu thuế là của ngành tài chính, không phải trách nhiệm của ngành giáo dục. Vì thế, trong dự thảo thông tư ban hành quy định về dạy thêm học thêm, chúng tôi chỉ đặt vấn đề này như một nguyên tắc mà cán bộ, giáo viên trong ngành phải thực hiện” – Một lãnh đạo Bộ GD&ĐT.
Trường nào tôi cũng đều ký hợp đồng đàng hoàng hàng tháng tôi lĩnh thêm khoảng 4 triệu đồng mỗi trường. Tôi chẳng bao giờ thấy ai đả động gì đến chuyện đóng thuế cả và cũng chưa bao giờ nghe giáo viên nào nói là phải đóng thuế”, giáo viên một trường THPT công lập trên địa bàn quận Thanh Xuân cho biết.
Cũng theo giáo viên này, những giáo viên có thu nhập hàng chục triệu từ dạy thêm cho học sinh của chính mình chưa bao giờ được cơ quan thuế hỏi đến vì ngành giáo dục còn chẳng biết, nữa là ngành khác!
Tuy nhiên, trao đổi với PV, nhiều giáo viên khẳng định, người thu nhập cao phải chịu thuế thu nhập là đương nhiên. “Đã là giáo viên thì ai cũng đều có lòng tự trọng trước học trò. Bấy lâu nay do quản lý dạy thêm kém nên dạy thêm lành mạnh với dạy thêm không lành mạnh lẫn lộn, nhiều người nói đến dạy thêm cứ như nói đến mặt trái của giáo dục. Việc tham gia đóng thuế thu nhập từ nguồn dạy thêm sẽ giúp giáo viên dễ ăn dễ nói với học trò, ít nhất là họ cũng có căn cứ để học trò tin hoạt động dạy thêm của cô là lành mạnh, được sự cho phép của nhà nước”, cô T.K, giáo viên trường THCS Khương Thượng, quận Đống Đa bình luận.
Một số ý kiến khác còn cho rằng chủ trương đánh thuế thu nhập từ dạy thêm của giáo viên sẽ giúp ngành thuế vào cuộc tích cực để có thêm nguồn thu cho ngân sách và điều này tác động tích cực trở lại tới hoạt động dạy thêm.
“Từ trước đến nay ngành giáo dục quy định rất nhiều chẳng hạn dạy thêm phải xin phép, dạy thêm phải đảm bảo các điều kiện thời gian, cơ sở vật chất… nhưng nào có ai kiểm tra việc thực hiện các quy định đó! Nhưng nếu giờ ngành thuế cũng vào cuộc thì có thể việc quản lý sẽ được tốt hơn, giáo viên sẽ e ngại hơn để không vi phạm các quy định”, một hiệu trưởng trường THPT nói.
Một luồng ý kiến khác (chiếm số đông trong số người được hỏi) đều hồ nghi về tính khả thi của quy định giáo viên dạy thêm phải nộp thuế cũng như khả năng tham gia điều chỉnh của nó tới quản lý hoạt động dạy thêm.
“Dạy thêm mang nhiều sắc thái tiêu cực như hiện nay xuất phát từ thực tế nhu cầu học thêm nhiều khi đến lệch lạc của một bộ phận lớn học sinh, phụ huynh. Nhu cầu đó xuất phát từ cách đánh giá, thi cử của chúng ta. Đưa ra hết quy định này đến quy định khác cũng vô ích khi mà cái chung chưa được điều chỉnh, vì người ta sẽ tìm cách “lách” quy định. Không cẩn thận, rồi đến ngày ngoài nạn dạy thêm học thêm tràn lan chúng ta có thêm nạn giáo viên tìm cách “lách” thuế”, thầy Đặng Đình Đại, Hiệu trưởng trường THPT Vạn Xuân nhận xét.
Giáo viên tiểu học thu nhập bốn – năm chục triệu đồng từ dạy thêm
Theo một phụ huynh có con học lớp 4 trường Tiểu học Trung Tự, quận Đống Đa, con của anh học ngày 2 buổi ở trường, tan học buổi chiều lại đến nhà cô giáo học thêm tuần 2 buổi với giá 80.000 đồng/ học sinh/ buổi. Cả lớp 60 cháu đều theo học (cô chia thành hai nhóm), gọi là lớp cơ bản.
Ngoài ra một số phụ huynh được cô gợi ý nên cho con học lớp nâng cao, tuần một buổi, giá 90.000 đồng/ học sinh/ buổi. Chưa tính lớp nâng cao, mỗi tháng cô thu tiền học thêm từ hai lớp cơ bản là 43 – 48 triệu đồng.
Một phụ huynh trường Tiểu học Khương Mai, quận Thanh Xuân thì khoe con gái mình may mắn được học một cô giáo tốt nên chỉ dạy thêm đại trà một tuần một buổi, học phí 300.000 đồng/ tháng. Lớp có 50 học sinh, vị chi cô giáo “thu hoạch” mỗi tháng 15 triệu đồng nhờ dạy thêm chính học sinh của mình, chưa kể các lớp riêng cô mở theo yêu cầu của một vài nhóm phụ huynh.
Theo TPO
Chọn ngành cho tương lai
Không ít thí sinh đổ xô đăng ký vào một số ngành học được cho là thời thượng, dễ tìm việc, thu nhập cao trong thời điểm hiện nay. Nhưng liệu những ngành đó có dễ tìm việc trong năm, mười năm tới?
Dự báo nhân lực qua đào tạo ngành ngân hàng - (Nguồn: tổng hợp kết quả dự báo từ quy hoạch phát triển nhân lực ngành ngân hàng giai đoạn 2011-2020 của Ngân hàng Nhà nước)
Theo dự báo của Viện Chiến lược phát triển, Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch - đầu tư, đến năm 2020 tổng nhu cầu nhân lực sẽ tăng hơn 12 triệu người so với năm 2011. Nhu cầu lớn nhất thuộc về khối ngành công nghiệp - xây dựng với hơn 8 triệu người, khối ngành dịch vụ tăng thêm hơn 3 triệu người. Riêng khối ngành nông, lâm, ngư nghiệp sẽ tăng ít nhất với khoảng 800.000 người. Đáng chú ý, nguồn nhân lực mà nền kinh tế cần chủ yếu là nhân lực đã qua đào tạo.
Khác biệt ngành thủy sản
Theo dự báo của các chuyên gia và các cơ quan chức năng, trong giai đoạn 2011-2020, tỉ trọng nhân lực khối ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong tổng nguồn lao động xã hội có xu hướng giảm nhanh. So với các khối ngành khác, đến năm 2020 tỉ lệ lao động của khối ngành này giảm gần 10% so với năm 2011. Tuy nhiên, số lượng lao động tuyệt đối vẫn chưa giảm đáng kể, thậm chí còn tăng chút ít. Dự báo số lao động qua đào tạo các loại của khối ngành nông, lâm, ngư nghiệp sẽ đạt khoảng 27% vào năm 2015 và 50% vào năm 2020, tương ứng với khoảng 7 triệu và 13 triệu người.
Tuy nhiên trong nhóm ngành này, thủy sản lại có sự khác biệt. Trong khi nhóm ngành nông, lâm nghiệp cũng như cả khối này tỉ lệ lao động qua đào tạo không cao thì nhu cầu lao động qua đào tạo của ngành thủy sản vào năm 2020 sẽ lên đến 68%, chủ yếu là đào tạo nghề. Bên cạnh đó, nhu cầu nhân lực của ngành thủy sản cũng có tỉ lệ tăng nhiều nhất trong khối nông, lâm, ngư nghiệp.
Dự báo đến năm 2020, tổng lao động đã qua đào tạo của riêng ngành thủy sản cần đến 1,7 triệu người. Tốc độ tăng nhu cầu lao động của nhóm ngành thủy sản cũng vượt trội so với các ngành khác cùng nhóm ngành, đặc biệt là trong giai đoạn từ nay đến năm 2014. Trong khi tốc độ tăng nhu cầu lao động hằng năm của cả nhóm ngành này luôn ở mức dưới 0,5% thì nhóm ngành thủy sản tăng từ 2,21-3,8%. Điều này dẫn đến việc nhu cầu lao động của ngành thủy sản cũng tăng lên hơn 2,4 triệu người so với 1,9 triệu của năm 2011.
Ngành xây dựng tăng mạnh
Tổng số lao động trong khối ngành công nghiệp - xây dựng được dự báo là gần 15 triệu người vào năm 2015 và tăng lên đến gần 20 triệu vào năm 2020. Trong đó, riêng lực lượng lao động đã qua đào tạo lần lượt sẽ là 11 và 16 triệu người. Trong số lao động được đào tạo, phần lớn vẫn là đào tạo nghề với tỉ lệ 82-85%, trong khi đào tạo trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học có tỉ lệ giảm dần từ 17,9% còn 14,2%. Theo dự báo, tỉ lệ lao động được đào tạo bậc đại học chiếm khoảng 6,2%, trong khi đào tạo trung cấp chiếm 5,9% lực lượng lao động trong khối ngành công nghiệp - xây dựng.
Trong khối ngành công nghiệp - xây dựng, nhu cầu lao động tăng nhiều nhất phải kể đến nhóm ngành công nghiệp chế biến. Theo thống kê, nhu cầu nhân lực của nhóm ngành này khoảng 7,5 triệu người. Tuy nhiên, đến năm 2015 ngành này sẽ cần đến hơn 9 triệu lao động và đến năm 2020 cần đến hơn 11 triệu người. Nhưng nếu xét về tốc độ tăng nhu cầu nhân lực thì phải kể đến ngành xây dựng. Đây là lĩnh vực được dự báo có tốc độ tăng lao động cao nhất khi quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra ngày một nhanh hơn. Theo tính toán, nhân lực ngành xây dựng đến năm 2015 sẽ là 5 triệu người, tăng gần 2 triệu người so với năm 2010. Đến thời điểm đó, tổng số nhân lực qua đào tạo ngành xây dựng xấp xỉ 3 triệu người, đến năm 2020 con số này là 5 triệu người. Theo dự báo, từ nay đến năm 2020, nhu cầu nhân lực ngành xây dựng mỗi năm tăng thêm 400.000-500.000 người.
Ngược lại, các ngành thuộc nhóm công nghiệp khai thác và sản xuất, phân phối điện, khí đốt và nước có xu hướng tăng chậm, thậm chí giảm nhu cầu nhân lực. Đặc biệt, nhóm ngành công nghiệp khai thác sẽ giảm đều nhu cầu nhân lực từ nay đến năm 2020, mỗi năm giảm khoảng 100.000 người.
Dịch vụ cần lao động bậc cao
Cùng với khối ngành công nghiệp - xây dựng, nhân lực khối ngành dịch vụ như khách sạn nhà hàng, sửa chữa động cơ, vận tải, thông tin liên lạc, tài chính, tín dụng, hoạt động khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo... được dự báo sẽ tăng nhanh trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. Theo tính toán, nhân lực khối ngành này đến năm 2015 là 15 triệu người, tăng gần 2 triệu so với năm 2010, và đến năm 2020 tăng lên gần 17 triệu người, chiếm khoảng 27% tổng lao động trong nền kinh tế quốc dân.
Đáng chú ý là số nhân lực qua đào tạo của khối ngành dịch vụ được đòi hỏi cao hơn hẳn so với các khối ngành khác. Dự báo đến năm 2015, số lao động khối ngành dịch vụ đã qua đào tạo khoảng 12 triệu người, chiếm đến 80% lực lượng lao động. Và con số này của năm 2020 là gần 15 triệu người, tương ứng với 87%.
Trong các bậc đào tạo, khối ngành dịch vụ cũng có đặc trưng khác các khối ngành khác với việc yêu cầu trình độ đào tạo khá cao. Trong khi các ngành khác cần một lượng lớn lao động được đào tạo thì khối ngành dịch vụ cần nhiều lao động được đào tạo trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học. Theo dự báo, nhu cầu lao động khối ngành dịch vụ được đào tạo đại học lên đến 25,9% vào năm 2020.
Một số ngành, lĩnh vực cụ thể đang được đánh giá là thiếu nhiều cán bộ chuyên môn như tài nguyên môi trường, giao thông vận tải, du lịch... Đặc biệt, ở lĩnh vực môi trường, số cán bộ làm công tác này ở nước ta mới chỉ đạt 13 người/triệu dân, trong khi tỉ lệ này ở nhiều nước cao gấp đôi, thậm chí gấp hàng chục lần. Nhân sự ngành du lịch cũng được dự báo tăng khoảng 6,2%/năm. Đây là một tốc độ tăng khá cao, tạo cơ hội việc làm lớn cho những lao động đã qua đào tạo trong lĩnh vực này.
Phải học hành bài bản Các ngành như công nghệ thông tin, tài chính, ngân hàng, năng lượng hạt nhân... đòi hỏi phần lớn người lao động phải được đào tạo, thậm chí là đào tạo cao đẳng, đại học trở lên. Với công nghệ thông tin, đây là lĩnh vực công nghệ cao và có xu hướng phát triển nhanh. Dự báo đến năm 2015, tổng số nhân lực công nghệ thông tin sẽ vào khoảng 550.000 người (hiện nay khoảng 350.000 người). Ở ngành ngân hàng, dự báo đến năm 2015, tổng nhân lực làm việc trong ngành này sẽ là 240.000 người, tăng gần 65.000 người so với năm 2010, tốc độ tăng bình quân mỗi năm khoảng 6,5%. Với tốc độ này, đến năm 2020, tổng số nhân lực làm việc trong ngành sẽ lên đến hơn 300.000 người, nghĩa là tăng hơn 125.000 người so với hiện nay. Riêng ở ngành tài chính, nhu cầu lao động đến năm 2015 là gần 500.000 người. Trong đó, với đặc thù của mình, ngành tài chính đòi hỏi gần như 100% lao động phải qua đào tạo.
TS ĐỖ VIỆT HÀ - HÙNG THUẬT
Theo Tuổi trẻ
Nghề tay trái thu nhập cao của nhà giáo Các thầy cô giáo Trường THCS Đinh Tiên Hoàng (TP Tuy Hòa, Phú Yên) chọn một nghề tay trái khá nhẹ nhàng nhưng có thu nhập hàng chục triệu đồng: trồng cây kiểng tết. Thầy Bùi Văn Cường dạy môn công nghệ, đã có 11 năm trong nghề, mức lương 3 triệu đồng/tháng. Đồng lương này chỉ đủ trang trải cho cá nhân...