Dạy – học môn Ngữ văn Chương trình GDPT mới
Chương trình Giáo dục phổ thông mới được xây dựng và chuẩn hóa theo hướng hiện đại, bảo đảm chất lượng, tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học trên; cho phép vận dụng nhiều phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực nhằm phát triển phẩm chất, năng lực ở học sinh…
Tuy nhiên, có không ít những điểm nếu thiếu sự tập huấn, chuẩn bị kỹ cho người thực thi, chắc chắn chương trình khó có thể vận hành và được thực hiện hiệu quả.
Giờ học Ngữ văn. Ảnh: IT
Luyện kỹ năng giao tiếp
Việc lấy rèn luyện các kĩ năng giao tiếp làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học, nhìn từ phương diện “thao tác luận” là đúng và yêu cầu phải thực hiện. Nhưng nếu không cẩn thận sẽ dễ bị hiểu nhầm, dẫn đến thực hiện không nhằm đúng bản chất và đặc thù đích thực của môn Ngữ văn. Việc “lấy rèn luyện các kĩ năng giao tiếp làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học” hoàn toàn sát đúng với bản chất, đặc thù của môn ngoại ngữ.
Nhưng với môn Ngữ văn, điều này nếu hiểu và thực hiện không đúng, sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy. Hệ quả, hệ lụy của nó là có thể biến giờ dạy – học Ngữ văn thành giờ thực hiện các thao tác cơ giới, máy móc, vô cảm giữa người dạy và người học, người học với người học, trên cứ liệu là các văn bản của môn Ngữ văn.
Để khắc phục nguy cơ rất có thể diễn ra này, ngoài sự tự xác định của giáo viên, cần phải có những hướng dẫn cụ thể, có kế hoạch tập huấn cụ thể cho giáo viên. Chương trình được xây dựng theo hướng mở, thể hiện ở việc không quy định chi tiết về nội dung dạy học mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp; quy định một số kiến thức cơ bản, cốt lõi về tiếng Việt, văn học và một số văn bản có vị trí, ý nghĩa quan trọng của văn học dân tộc là nội dung thống nhất bắt buộc đối với học sinh toàn quốc.
Cũng tương tự như điều vừa nói trên, việc “không quy định chi tiết về nội dung dạy học mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp” rất dễ có nguy cơ khiến giáo viên chỉ chăm chăm vào “kỹ thuật”, “thao tác” dạy học. Giờ dạy – học Ngữ văn sẽ trở nên rất vô hồn, khó có thể khơi dậy niềm hưng phấn thẩm mỹ – nhân văn… ở người học mà chỉ có môn Ngữ văn mới có ưu thế mang lại. Tính mở của chương trình cũng có nguy cơ dẫn đến những tán loạn ở cả hai loại hoạt động dạy – học và đ.ánh giá kết quả.
Nhận thức về lịch sử văn học
Chương trình Ngữ văn mới dựa hẳn vào trục thể loại/ kiểu văn bản để dạy học đọc, viết, nói, nghe; dạy phân tích, cảm thụ văn học. Ưu điểm của Chương trình Ngữ văn mới ở vấn đề này là thuận tiện cho việc dạy học đọc, viết, nói, nghe; dạy phân tích, cảm thụ văn học, nhất là với các tác phẩm thuộc thời kỳ văn học hiện đại – các tác phẩm “thuận tai”, “thuận mắt” và dễ tiếp thu hơn không chỉ đối với người học mà còn đối với cả người dạy có thể được dạy – học trước.
Nhưng nhược điểm là ở chỗ nó khiến cho học sinh sẽ dễ bị lẫn lộn, thậm chí tán loạn trong nhận thức về lịch sử văn học, không thấy đâu là diễn trình, bước đi của lịch sử văn học dân tộc, hiện tượng ra đời trước cứ tưởng là sau, và ngược lại. Đành rằng ở cuối cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông, có bài khái quát những nét lớn về lịch sử văn học Việt Nam, nhưng như thế không đủ. Tiếp nhận tri thức Ngữ văn đối với học sinh trong nhà trường phổ thông là cả một quá trình, theo lối thấm dần, ngấm dần. Ấn tượng thời học sinh với bất cứ ai cũng vậy, thường có khả năng neo đậu trong tâm trí suốt cả cuộc đời.
Để khắc phục sự mơ hồ, lẫn lộn, tán loạn rất có thể diễn ra trong nhận thức về lịch sử văn học dân tộc, khi dạy học đọc, viết, nói, nghe; dạy phân tích, cảm thụ văn học qua từng tác phẩm, người giáo viên phải chú ý kết hợp với trục lịch sử văn học. Và để tạo một sự thống nhất trong toàn quốc, cũng nên có văn bản hướng dẫn cụ thể.
Video đang HOT
Giáo viên là người thuần túy hướng dẫn?
Do yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực của người học, Chương trình Ngữ văn mới chú trọng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập và vận dụng kiến thức, kĩ năng của học sinh; rèn luyện cho học sinh phương pháp đọc, viết, nói, nghe, cách thức tạo lập văn bản… Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, tổ chức, khơi gợi. Điều này là hết sức cần thiết đối với hướng dạy học theo mô hình phát triển năng lực.
Nhưng khi người dạy “được quyền”, “được phép” xem mình chỉ là người thuần túy hướng dẫn, tổ chức các hoạt động dạy – học, tất cả còn lại phó thác cho người học, riêng với môn Ngữ văn, do đặc thù của môn học này, chắc chắn nguy cơ sẽ không nhỏ. Giáo viên rất dễ rơi vào tình trạng ỷ lại học trò, lấy cớ là phát huy trí sáng tạo của học trò; môn Ngữ văn rất có thể sẽ trở thành “sân chơi” ồn ào, vô cảm, vô bổ…
Dạy học Ngữ văn theo mô hình phát triển năng lực, yêu cầu người giáo viên đóng vai trò là người hướng dẫn, tổ chức, khơi gợi, không lấy việc phân tích, bình giảng của mình thay thế cho những suy nghĩ của học sinh. Nhưng như thế không có nghĩa là người giáo viên không cần dùng đến phương pháp diễn giảng, phân tích mẫu, thuyết trình tích cực.
Tuỳ vào đối tượng học sinh ở từng cấp học, lớp học và thể loại của văn bản văn học mà vận dụng các phương pháp, kỹ thuật và hình thức dạy học cho phù hợp. Dẫu trong trường hợp nào, người truyền cảm hứng vẫn là người thầy giáo trên lớp. Phương pháp diễn giảng, phân tích mẫu, thuyết trình tích cực đối với môn Ngữ văn vẫn là một phương pháp khó có thể thay thế. Vấn đề là cách dùng nó trong những trường hợp nào với mức độ nào, và trong sự phối – kết hợp với các phương pháp khác ra sao cho phù hợp và mang tính hữu hiệu. Điều này chỉ có thể do năng lực và vốn liếng văn hóa – văn học – ngôn ngữ của người dạy quyết định…
PGS.TS Biện Minh Điền (Trường ĐH Vinh)
Theo giaoducthoidai
Hà Giang, Sơn La, Hòa Bình trả lại giá trị, Gia Lai và Cần Thơ tăng điểm ấn tượng môn Toán
GS Nguyễn Văn Tuấn, Viện Garvan, Australia, nhận định giá trị điểm thi của 3 tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Hà Giang đã được trả lại. Năm 2019, hai tỉnh Gia Lai và Cần Thơ có sự tăng trưởng ấn tượng đặc biệt ở môn Toán.
Sự khác biệt điểm thi ở Hà Giang, Sơn La, Hòa Bình ở hai năm
Hà Giang, Sơn La, Hòa Bình là 3 tỉnh diễn ra gian lận thi cử chấn động trong kỳ thi THPT Quốc gia 2018. Vì gian lận điểm thi 3 tỉnh này năm 2018 thực sự "ấn tượng", nhưng năm 2019, giá trị điểm số đã được trả về đúng vị trí.
Từ dữ liệu điểm thi của Bộ GD-ĐT, GS Nguyễn Văn Tuấn đã có những phân tích, thể hiện sự khác biệt giữa điểm thi hai năm của địa phương, thể hiện qua biểu đồ báo cáo phân bố điểm của năm 2019 và 2018.
GS Tuấn phân tích, đối với Hà Giang về biểu đồ các môn, đỉnh (tức trung bình) thì không khác nhau giữa 2 năm, nhưng đuôi thì năm 2019 ngắn hơn 2018. Điều đó có nghĩa là số học sinh có điểm cao năm 2019 thấp hơn 2018.
(Ảnh: GS Nguyễn Văn Tuấn cung cấp)
"Cụ thể, với môn Toán, nếu năm 2018, có 1% số học sinh Hà Giang có điểm>= 9 thì năm 2019 thì còn 0.23 %.
Tương tự, môn Lý, nếu năm 2018 có 5,5% học sinh có điểm>=9 trở lên thì năm nay chỉ có 0,13%.
Môn Ngoại ngữ, năm 2018 Hà Giang có 0,8% học sinh có điểm>= 9 thì năm nay chỉ còn 0,022%.
Hai môn Ngữ Văn và Hóa học năm nay Hà Giang không có thí sinh có điểm>= 9, trong khi đó, năm ngoái ở môn Ngữ Văn là 0,30% số học sinh và môn Hóa học là 3,7% số học sinh"- ông Tuấn phân tích.
GS Tuấn cho hay, điều này xảy ra tương tự với Sơn La. Đỉnh biểu đồ (tức trung bình) không khác nhau giữa 2 năm, nhưng tail (đuôi) thì năm 2019 ngắn hơn 2018, có nghĩa là số học sinh có điểm cao năm 2019 thấp hơn 2018.
(Ảnh: GS Nguyễn Văn Tuấn cung cấp)
Cụ thể, với môn Toán, năm 2018, Sơn La có 0,29% học sinh có điểm>=9 thì năm 2019 là 0,13%. Môn Lý, năm 2018 có 0,97% số học sinh đạt điểm>=9, nhưng năm nay không có thí sinh nào. Tương tự, môn Văn và môn Hóa năm ngoái có 0,11% và 0,20 % số học sinh đạt điểm>=9 thì năm nay không có trường hợp nào. Riêng môn Ngoại ngữ năm 2018 có 0,30% số học sinh đạt điểm>=9 thì năm 2019 là 0,01%.
Ở tỉnh Hòa Bình, GS Tuấn cho rằng lại có một sự khác biệt nho nhỏ. "Hơi ngạc nhiên khi số học sinh đạt điểm>=9 của địa phương này ở hai môn Ngoại Ngữ và Toán năm nay lại cao hơn năm ngoái. Cụ thể, nếu năm 2018, môn Ngoại ngữ số học sinh đạt điểm>=9 là 0,39% thì năm 2019 là 0,65%; Tương tự, môn Toán năm ngoái là 0,30% thì năm 2019 là 0,40%".
(Ảnh: GS Nguyễn Văn Tuấn cung cấp)
Nhưng theo GS Tuấn, ba môn Lý, Hóa và Ngữ Văn đã có sự khác biệt nhiều là số học sinh đạt điểm>=9 đã ít hơn. Môn Hóa năm 2018 có 0,58% số học sinh đạt điểm>= 9 thì năm nay là 0,18%; Còn môn Lý, năm ngoái 0,87% thì năm nay chỉ còn 0,02%, còn môn Ngữ Văn năm 2018 là 0,17% thì năm nay là 0,01% có điểm>=9.
Sự tăng trưởng ấn tượng của Gia Lai và Cần Thơ trong điểm môn Toán
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, nhìn nhận từ dữ liệu thi năm nay, nếu tính trung bình các tỉnh, vùng Tây Bắc và Đông Bắc có điểm thi năm 2019 thấp nhất so với các tỉnh còn lại.
Đối với môn toán, điểm trung bình của ba tỉnh Sơn La (3,5), Hà Giang (3,69), Hoà Bình (4,14) chỉ bằng khoảng 60% so với điểm trung bình của các thí sinh thuộc tỉnh Nam Định (6,52), TP. HCM (6,35), Hà Nam (6,18), và Bình Dương (6,16).
(Ảnh: GS Nguyễn Văn Tuấn cung cấp)
Thí sinh thuộc các tỉnh vùng Tây Bắc và Đông Bắc cũng có điểm trung bình bị giảm (-) nhiều so với năm ngoái.
Cụ thể như môn Toán, các tỉnh như Hà Giang giảm 1,52 điểm, Sơn La (-0,91), Cao Bằng (-0,87), Hoà Bình (-0,75), Bắc Kạn (-0,55), và Thái Nguyên (-0,36) đều giảm điểm trung bình so với năm 2018.
Ngoài môn Toán, điều này xảy ra tương tự với thí sinh thuộc tỉnh Hà Giang, Sơn La, Cao Bằng cũng có điểm thấp đối với các môn Vật Lý, Hóa, Sinh, Văn, Sử và Địa Lý.
Cụ thể, học sinh thuộc tỉnh Hà Giang cũng giảm điểm môn Lý (-1,44), Hoá (-1,38), Văn (-2, 2) so với năm 2018; Học sinh thuộc tỉnh Sơn La cũng giảm môn Toán (-0,91) và Văn (-2,49), nhưng tăng điểm các môn Lý (0,28), Hoá (0,24), và Sinh học (0,23).
Trong khi đó, từ dữ liệu của Bộ thì đa số các tỉnh thành khác trong cả nước lại có xu hướng tăng điểm trung bình và tăng ( ) điểm từng môn.
Cụ thể với môn Toán, tăng điểm cao nhất là Cần Thơ tăng gần 2 điểm, kế đến là Lâm Đồng ( 1,90), Hải Phòng ( 1,59), Quảng Ninh ( 1, 54), Bắc Giang ( 1, 52) và T.iền Giang ( 1, 50). Một điều ngạc nhiên là tỉnh Gia Lai cũng tăng điểm Toán khá cao từ 3,49 năm 2018 lên 5, 32 năm nay ( 1,82 điểm).
Riêng Cần Thơ, ngoài môn Toán thì các môn Lý, Hóa, Văn, Ngoại Ngữ có điểm các môn Lý, Hóa, Ngoại ngư cũng tăng. Cụ thể với điểm>9 trở lên, nếu năm 2018 môn Toán chỉ có 0,15% thí sinh thì năm 2019 là 0,92% thí sinh; Môn Lý, năm 2018 là 0,19% thì năm 2019 là 0,24%; Môn Ngoại Ngữ năm 2018 là 0,31% thi năm 2019 là 1,1%; môn Hóa năm 2018 là 0,22% thì năm 2019 là 0,41%. Riêng môn Ngữ Văn lại giảm khi năm 2018 là 0,60% thì năm 2019 là 0,42%.
Giáo sư Tuấn kết luận, nhìn vào điểm thi năm nay chưa có gì đột biến, nhưng nhìn chung cả nước có sự tăng nhẹ, trừ ba tỉnh xảy ra năm ngoái là Hà Giang, Sơn La, Hòa Bình đã trả lại giá trị.
Lê Huyền
Theo vietnamnet
TP.HCM công bố điểm thi vào lớp 10 Chiều 12/6, Sở GD&ĐT TP.HCM đã công bố điểm thi vào lớp 10 của hơn 80.000 thí sinh. Theo thống kê của Sở GD&ĐT TP.HCM, đối với tuyển sinh lớp 10 thường, môn Ngữ văn có 79.594 bài thi. Số bài dưới 5 điểm chiếm tỷ lệ 5,31%, bài thi từ 5 điểm trở lên là 94,69%, bài thi từ 8 điểm trở...