Đâu là bí quyết lọt top trong các bảng xếp hạng Đại học uy tín?
ĐHQG Hà Nội hiện có tên trong bảng xếp hạng QS châu Á với vị trí đứng thứ 124 châu Á, nằm trong top 24,7% những trường ĐH hàng đầu khu vực.
Mới đây, ĐHQG Hà Nội tiếp tục là 1 trong 2 ĐH Việt Nam xuất hiện trong bảng xếp hạng thường niên nổi tiếng QS World University Rankings. Câu hỏi nhiều trường ĐH Việt Nam đang đặt ra: Bí quyết để lọt vào top trong các bảng xếp hạng ĐH uy tín là gì?
Sinh viên nước ngoài học tại ĐHQG Hà Nội. Ảnh:Hữu Cường
Hiểu rõ về bảng xếp hạng ĐH
TS Nghiêm Xuân Huy – Giám đốc Viện Đảm bảo chất lượng GD (ĐHQG Hà Nội) phân tích: Bảng xếp hạng là một tập hợp các tiêu chí khác nhau. Như vậy, tham gia mỗi bảng xếp hạng giống như trường ĐH tham gia vào một cuộc thi với những chỉ tiêu, chỉ số riêng. Tham gia một bảng xếp hạng là một góc nhìn về chất lượng, không phải là một bức tranh toàn cảnh về chất lượng của trường ĐH.
Nếu một trường ĐH chỉ lấy xếp hạng làm mục tiêu thì việc phát triển sẽ không bền vững. “Quan điểm của ĐHQG Hà Nội trước hết phải phát triển theo chất lượng. Chúng tôi cho rằng, việc thực hành tốt, làm tốt từng việc, từng khâu trong đào tạo, nghiên cứu gắn với những chỉ số có liên quan đến xếp hạng, vừa lồng ghép những chỉ số phát triển có tính chất bền vững nhưng cũng đặt vào trong đó những chỉ số gắn với những tiêu chí trong bảng xếp hạng” – TS Nghiêm Xuân Huy cho biết.
ĐHQG Hà Nội đã nghiên cứu rất sâu về các bảng xếp hạng, tìm điểm tương đồng giữa các chỉ số phát triển bền vững của trường ĐH với chỉ số đánh giá trong bảng xếp hạng. Trên cơ sở đó, chú trọng chỉ số nào để vừa đảm bảo chất lượng của trường ĐH, vừa phát triển một cách hài hòa, nhưng vừa có những ưu thế trong xếp hạng. Điều rút ra là một trường ĐH đẳng cấp thế giới liên quan đến tài năng, con người, liên quan tới việc quản trị và nguồn lực để thực hiện nó.
Trong chiến lược phát triển, ĐHQG Hà Nội chú trọng 3 yếu tố: Phát triển nhân tài; Tối ưu hóa bộ máy quản trị để phát triển bền vững; Đa dạng hóa các nguồn lực để phát triển, trong đó nguồn lực để hợp tác phát triển như hợp tác quốc tế là một trong những nguồn lực rất được quan tâm.
Sinh viên Trường ĐH Công nghệ, ĐHQGHN/ Ảnh Internet
Các nhân tố quyết định chất lượng
Video đang HOT
Với một trường ĐH những yếu tố về đội ngũ giảng viên, đội ngũ học giả, quản trị, đội ngũ lãnh đạo, quản lý, việc lập kế hoạch, đánh giá… quyết định về chất lượng của nhà trường. ĐHQG Hà Nội nhận thấy để đánh giá chất lượng ĐH hiện nay có rất nhiều tham số thông qua các nghiên cứu, kiểm định, phân tích đối sánh, thông qua việc tự đánh giá mình và thông qua xếp hạng. TS Nghiêm Xuân Huy chia sẻ: Chúng tôi nhìn nhận xếp hạng là một trong những chỉ số đánh giá chất lượng trường ĐH. Từ chỉ số chất lượng này, chúng tôi phân tích giảng viên, SV, SV tốt nghiệp, cựu sinh viên cần những yếu tố gì để vừa phát triển đảm bảo chất lượng, vừa giúp cho việc đẩy mạnh các chỉ số trong các bảng xếp hạng.
“Quan điểm của ĐHQG Hà Nội trước hết phải phát triển theo chất lượng. Cần thực hành tốt, làm tốt từng việc, từng khâu trong đào tạo, nghiên cứu gắn với những chỉ số có liên quan đến xếp hạng, vừa lồng ghép những chỉ số phát triển có tính chất bền vững nhưng cũng đặt vào trong đó những chỉ số gắn với những tiêu chí trong bảng xếp hạng.”
TS Nghiêm Xuân Huy
Có thể thấy các vấn đề liên quan đến đầu ra, thành tựu, uy tín, tỷ lệ giảng viên làm tiến sĩ, năng lực nghiên cứu của trường ĐH, tỷ lệ SV/giảng viên, tỷ lệ giảng viên quốc tế… là chỉ số các bảng xếp hạng rất quan tâm, đặc biệt là QS. Đây là một trọng số rất quan trọng cho thấy chất lượng của trường ĐH về góc độ trình độ và chất lượng của đội ngũ khoa học. Được biết, bảng xếp hạng QS châu Á mới nhất đã đưa vào thêm chỉ số Mạng lưới hợp tác quốc tế, trọng số này chiếm 10% chỉ số xếp hạng. Theo đó, để thúc đẩy xếp hạng phải rất quan tâm tới mạng lưới hợp tác quốc tế của trường ĐH.
Ngoài ra, uy tín của trường ĐH được thể hiện qua uy tín về học thuật, tuyển dụng cũng như những đóng góp cho cộng đồng, được thể hiện thông qua những kết quả nghiên cứu, thông qua hợp tác và các đối tác của trường ĐH, để thấy phát triển bền vững và xếp hạng có liên quan tới nhau. Nếu làm tốt hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, uy tín học thuật của trường ĐH sẽ được lan tỏa, tăng các nguồn tài trợ cho nghiên cứu, công bố quốc tế nhiều hơn. Và quan trọng, học giả sẽ đánh giá nhà trường cao hơn.
Hai văn bản quan trọng
TS Nghiêm Xuân Huy cho biết, dựa trên các yêu cầu về chỉ số xếp hạng cũng như các giải pháp đẩy mạnh cải tiến chất lượng, ĐHQG Hà Nội đã xây dựng 2 văn bản rất quan trọng. Văn bản đầu tiên là bộ chỉ số về ĐH nghiên cứu được xây dựng dựa trên các tham chiếu với nhiều trường ĐH hàng đầu khu vực châu Á cũng như các tiêu chí có trong bảng xếp hạng. Trên cơ sở đó định hướng phát triển các trường ĐH, đồng thời đặt ra chỉ tiêu đầu tư nguồn lực để có thể đạt được, vừa đảm bảo hệ thống phát triển bền vững, vừa đảm bảo đạt thứ hạng cao trong bảng xếp hạng.
Văn bản thứ hai là chiến lược phát triển ĐHQG Hà Nội đến năm 2025, tầm nhìn 2030. ĐHQG Hà Nội đưa vào văn bản các chỉ tiêu. Trong nhiều chỉ tiêu phát triển, có chỉ tiêu gắn với xếp hạng như chỉ tiêu về tỷ lệ tiến sĩ, chỉ tiêu về số bài báo công bố, chỉ tiêu về trích dẫn quốc tế, các hợp tác quốc tế… Đây là những chỉ tiêu vừa để phát triển, cũng là chỉ tiêu xếp hạng. “Đây là điều tôi muốn nhấn mạnh với các trường ĐH Việt Nam, làm sao vừa đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững nhưng cũng nhanh chóng có thể tiếp cận được với các bảng xếp hạng quốc tế” – TS Nghiêm Xuân Huy bày tỏ.
Được biết, để xây dựng bảng này, ĐHQG Hà Nội đã nghiên cứu nhiều hệ thống xếp hạng, dựa trên bối cảnh cụ thể của các trường ĐH Việt Nam xây dựng các tiêu chí để đánh giá cũng như đặt ra mục tiêu phát triển cho các trường.
Gia Hân
Theo GDTĐ
Kiểm tra đánh giá trong giáo dục đại học: Phải hướng tới thực học
Kiểm tra đánh giá vừa là mục tiêu vừa là nội dung cụ thể của quá trình đào tạo, cũng lại là một phương pháp để đo lường, đánh giá chất lượng của hoạt động đào tạo đó.
Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, hiện chính sách kiểm tra đánh giá trong giáo dục đại học (ĐH) ở nước ta vẫn còn khoảng trống, thiếu sự minh bạch, rõ ràng.
PGS.TS Vũ Đỗ Long.
Trong tuần qua, Trung tâm Khảo thí Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) đã tổ chức diễn đàn "Sơ khảo chính sách khảo thí một số trường đại học" nhằm đưa ra định hướng, đề xuất bổ sung hoàn thiện chính sách kiểm tra đánh giá trong ĐHQGHN nói riêng và giáo dục ĐH nói chung. Phóng viên Đại Đoàn Kết đã có cuộc trò chuyện với PGS.TS Vũ Đỗ Long - Giám đốc Trung tâm Khảo thí ĐHQGHN xung quanh vấn đề này.
PV: Thưa ông, ông có nhận xét gì về cách kiểm tra đánh giá của các trường ĐH hiện nay? Liệu có phải hơi "nương tay", các em sinh viên ra trường với tấm bằng khá, giỏi rất dễ dàng. So với thời của ông đi học, có khác gì không?
PGS.TS Vũ Đỗ Long: Về câu hỏi này, tôi cũng nghe nhiều chia sẻ của các thầy cô. Đúng là có sự khác biệt, xuất phát từ tâm lý chung của xã hội. Với các giáo viên hiện nay có hơi "nương tay" cho các em, tôi nghĩ cũng là mong muốn tích cực. Thứ nhất, thầy cô mong rằng các em ra trường có bảng điểm tạm ổn, cũng chính là mong các em có cơ hội tìm kiếm việc làm dễ. Thứ hai, có thể quan điểm cho điểm thời nay cũng thoáng, mở rộng hơn hồi xưa. Ngày xưa, người ta yêu cầu anh phải có kiến thức thật tốt, nền tảng thật vững mới cho điểm cao. Thực ra, bản thân tôi là giáo viên được 20 năm cũng có những "châm chước" cho các em. Thấy các em ngoan ngoãn, đến lớp đầy đủ, ghi chép bài đầy đủ và có ý thức học, bản thân giáo viên cũng thấy nên có động tác khuyến khích các em. Khuyến khích, "châm chước" như thế nào? Là cho các em đề cương bám sát hơn, ôn tập dễ hơn... Chính những động thái ấy, cách làm ấy giúp các em được điểm cao thôi. Còn chấm bài thì vẫn rất đúng. Cách tổ chức dạy và ôn tập thì có thể là ôn tập nhiều hơn, cho đề cương gần hơn.
Một điểm khác nữa so với ngày xưa, đó là bài thi bây giờ cũng có cơ chế tốt hơn. Các em có điểm giữa kỳ, điểm thường xuyên. Điểm thường xuyên như là điểm chuyên cần, chỉ cần các em đi học đủ là được điểm cao rồi. Điểm giữa kỳ là các em học nửa kỳ đã thi rồi nên các em có khoảng kiến thức ôn tập không quá lớn. Còn ngày xưa như thời tôi và các anh chị đi học thì đều học cả năm, rồi đến cuối năm mới thi. Như vậy thì ôn tập rất nhiều nên cũng khó được điểm cao.
Hoạt động kiểm tra đánh giá của chúng ta so với các nước trên thế giới có nhiều điểm khác biệt không, thưa ông?
- Bản thân tôi đi học ở nước Nga, Ba Lan... hay các nước như Mỹ, Úc, Anh thì học ĐH do giáo viên chính môn đó phụ trách. Hình thức thi đa phần là vấn đáp. Có nơi gửi đề thi phòng đào tạo, hoặc gửi ban kiểm khoa... xong cho thi. Thi tuyển đầu vào thì độc lập, còn trong thời gian học thì do chính giáo viên ra đề thi.
Tuy nhiên, ở nước ngoài, đặc biệt là các trường ĐH đứng ở vị trí dẫn đầu trong các bảng xếp hạng trường ĐH thì lại có các tuyên bố chính sách về kiểm tra đánh giá một cách độc lập hiểu theo nghĩa được ban hành chính thức, độc lập và mang tính toàn vẹn, có nghĩa là bao gồm từ hoạt động đánh giá cơ sở giáo dục ĐH, đánh giá chương trình đào tạo cho đến đánh giá kết quả học tập của người học
Ông có thể nêu rõ hơn về khoảng trống của chúng ta trong kiếm tra đánh giá giáo dục ĐH hiện nay?
- Hiện nay các quy định về đào tạo của chúng ta rất rõ ràng. Học sinh phải học bao nhiêu tín chỉ trở lên thì được cấp bằng, thi điểm mức nào thì được qua môn, hay thi lại. Học sinh nợ bao nhiêu môn thì cảnh cáo lần 1, nợ bao nhiêu môn thì cảnh cáo lần 2 và bị đuổi học. Học sinh có điều kiện bảo vệ tốt nghiệp như thế nào thì được cấp bằng...
Nhưng quy định khảo thí thì vẫn có khoảng trống. Ví dụ quy định 1 môn thi 2 tín chỉ chẳng hạn thì được khung thời gian không quá 60 phút, 3 tín chỉ không quá 90 phút. Điểm hệ số đánh giá là công bằng, chuyên cần, cuối kỳ...
Tuy nhiên vẫn còn trống ở chỗ nó không minh bạch, không rõ ràng, cụ thể như các trường ở tư bản làm. Các nước phát triển họ làm rõ ràng lắm. Ví dụ điểm 9 của họ cần phải thông thạo, biết phân tích. Điểm 10 phải có cái mới, viết sâu sắc. Điểm 5 là đủ hiểu kiến thức cơ bản... Trong chính sách của họ rất rõ thang điểm như thế nào, các mức khác nhau như thế nào. Còn hiện nay ở giáo dục ĐH tại Việt Nam mức đó tùy giáo viên quy định. Quy định về điểm cũng như vậy. Nhiều quy định của chúng ta mang tính nêu tên còn chưa có mô tả cụ thể. Các nước khác họ nêu tên và mô tả đặc tính quy định đó.
Từ những khác biệt nêu trên, ông mong muốn chính sách kiểm tra đánh giá giáo dục ĐH Việt Nam sẽ được thực hiện như thế nào trong thời gian tới đây?
- Chúng tôi vừa ngồi với nhau tại diễn đàn "Sơ khảo chính sách khảo thí một số trường đại học", vì nhận thấy những điểm trống chưa rõ. Chúng tôi có khảo sát 4 trường ĐH là HongKong (Trung Quốc), Queensland (Australia), New South Wales (Australia), York (United Kingdom) nằm trong TOP 200 của Bảng xếp hạng trường ĐH thế giới (THE WUR) năm 2019 để đưa ra đề xuất với ĐHQGHN.
Có 14 hợp phần tạo thành cấu trúc chính sách kiểm tra đánh giá kết quả học tập của các trường ĐH được khảo sát. Trong các tiêu chí chúng tôi nêu ra của 4 trường ĐH thì trong vòng 1 năm tới, chúng ta chỉ cần làm được từ 1 đến 2 tiêu chí quy định rõ ràng cho các trường thành viên trong ĐHQGHN đã là thành công. Mỗi trường có một tiêu chí chính sách khác nhau. Để áp dụng chung cho tất cả còn cần rất nhiều thời gian nữa.
Khi ĐHQGHN thực hiện như thế, thì trong thời gian tuyển sinh hiện nay rất nhiều trường ĐH lại đang lấy điểm đầu vào rất thấp, chấm điểm cũng rất dễ để sinh viên tốt nghiệp được, lấy bằng khá giỏi để đi xin việc tốt. Điều này có tạo ra sự không công bằng đối với các sinh viên với nhau không?
- Chắc chắn rồi, nhưng đây cũng là bài toán khó của cơ chế thị trường. Bản thân tôi nghĩ rằng với xu hướng hiện tại, chất lượng làm việc là cái quan trọng. Và xu hướng tất yếu của xã hội hiện nay người ta chọn việc làm, chọn người làm theo năng lực thực sự. Tôi cho rằng các trường cứ lấy tiêu chí chỉ tiêu tuyển sinh làm trọng, không để ý tới chất lượng thì điều đó sẽ dẫn tới hệ quả về sau. Theo tôi có thể gọi là vì chỉ tiêu tuyển sinh nhỏ trước mắt mà bỏ phát triển lâu dài của nhà trường. Có thể nhìn rõ nhất là sự đánh giá của xã hội với trường đó không tốt. Đây là cách phát triển hoàn toàn sai lầm.
Xin cảm ơn ông!
* 14 hợp phần tạo thành cấu trúc chính sách kiểm tra đánh giá kết quả học tập được đề xuất tại diễn đàn bàn tròn khảo thí lần thứ nhất, được Trung tâm Khảo thí ĐHQGHN đưa ra, đó là: Triết lý đánh giá, nguyên tắc đánh giá, đánh giá đáp ứng chuẩn đầu ra, thông tin về việc đánh giá, mô tả điểm, cân bằng trong chấm điểm, điểm trung bình chung, công nhận và chuyển đổi tín chỉ, kỳ thi, phúc khảo, thẩm khảo kết quả và đánh giá lại, ngừng học, liêm chính học thuật, phản hồi.
* PGS.TS Vũ Đỗ Long: Một điểm khác nữa so với ngày xưa, đó là bài thi bây giờ cũng có cơ chế tốt hơn. Các em có điểm giữa kỳ, điểm thường xuyên. Điểm thường xuyên như là điểm chuyên cần, chỉ cần các em đi học đủ là được điểm cao rồi. Điểm giữa kỳ là các em học nửa kỳ đã thi rồi nên các em có khoảng kiến thức ôn tập không quá lớn. Còn ngày xưa như thời tôi và các anh chị đi học thì đều học cả năm, rồi đến cuối năm mới thi. Như vậy thì ôn tập rất nhiều nên cũng khó được điểm cao. Với xu hướng hiện tại, chất lượng làm việc là cái quan trọng. Tôi cho rằng các trường cứ lấy tiêu chí chỉ tiêu tuyển sinh làm trọng, không để ý tới chất lượng thì điều đó sẽ dẫn tới hệ quả về sau.
Huyền Trang (thực hiện)
Theo daidoanket
Trường ĐH Tôn Đức Thắng vào TOP 101 - 200 đại học có ảnh hưởng nhất toàn cầu Theo thông báo của THE (Times Higher Education) về kết quả xếp hạng những đại học có ảnh hưởng nhất đến sự phát triển bền vững về kinh tế-xã hội hàng đầu thế giới phạm vi toàn cầu, Trường ĐH Tôn Đức Thắng (TDTU) Việt Nam xếp thứ 101-200 trong bảng xếp hạng 2019. Các trường khác cùng nhóm với Trường ĐH Tôn...