Đậu hạt là nguồn thực phẩm tốt cho sức khỏe
Thường xuyên tiêu thụ đạm thực vật giúp giảm nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch so với các nguồn đạm động vật – nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho cả nam và nữ giới tại Hoa Kỳ, theo nghiên cứu phát hành trên tạp chí JAMA Nội khoa năm 2019.
Đậu hạt có thể thay thế thịt hay không?
Đậu hạt là nguồn thực phẩm có giá thành phải chăng (rẻ hơn thịt động vật), thân thiện với môi trường (so với quá trình chăn nuôi, súc sản), giàu chất xơ và các vitamin, khoáng chất.
Chứng đầy hơi do ăn các loại đậu hạt không quá nghiêm trọng và cơ thể chúng ta sẽ có sự thích ứng dần
Ngoài ra, các loại đậu hạt còn chứa nhiều polyphenol, chất oxy hóa có liên quan đến kháng viêm nhiễm, bảo vệ cơ thể khỏi bệnh tật – theo Tạp chí Quốc tế về Khoa học Phân tử năm 2017. Ăn đậu hạt cũng có thể giúp giảm cân, đặc biệt là giảm mỡ vùng bụng – thông tin từ tạp chí Đại học Dinh dưỡng Hoa Kỳ.
Chất xơ trong đậu tốt cho sức khỏe
Chất xơ hòa tan trong các loại đậu hạt được cho là có khả năng chống tích mỡ bụng. Kết quả nghiên cứu trên tạp chí Béo phì gợi ý, cứ thêm 10g chất xơ hòa tan được tiêu thụ, tỉ lệ tích mỡ trong ở vùng bụng giảm 3,7%. 1 cốc đậu đen nấu chín cung cấp 5,6g chất xơ hòa tan.
Tại Hoa Kỳ, có đến 95% dân số không đáp ứng đủ nhu cầu chất xơ hàng ngày và điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng. Thiếu chất xơ dẫn đến các bất ổn sức khỏe như khó quản lý thể trọng cơ thể, tăng nguy cơ bệnh tim mạch, đột quỵ, huyết áp cao, rối loạn dạ dày – đường ruột, tiểu đường tuýp 2 và một số loại ung thư – theo tạp chí Dưỡng chất, phát hành tháng 2-2020.
Đặc biệt, thiếu chất xơ còn ảnh hưởng đến sự liên tục trong thời gian ngủ và chất lượng giấc ngủ hàng ngày, phát hiện từ nghiên cứu đăng trên tạp chí Y học Giấc ngủ (2016).
Ăn đậu có gây đầy bụng không?
Chứng đầy hơi, chướng bụng do ăn các loại đậu hạt không nghiêm trọng như bạn nghĩ và cơ thể chúng ta sẽ có sự thích ứng dần nếu tiêu thụ đậu thường xuyên hơn – các chuyên gia khẳng định.
Theo nghiên cứu, mức độ đầy bụng giảm từ 35% xuống còn 19%, 11% và chỉ còn 3% sau 8 tuần liên tục bổ sung cốc đậu hạt vào chế độ ăn.
Đối với hàm lượng đạm, một khẩu phần thịt bò và thịt gà chứa tương ứng 21g và 25g protein; 1 cốc đậu nấu chín chứa 16g protein, 24g chất xơ và hơn 85% nhu cầu chất xơ hàng ngày – nguồn cung chất xơ chúng ta không thể tìm thấy từ thịt động vật.
Chế độ dinh dưỡng - nâng cao miễn dịch phòng dịch virus corona
Dinh dưỡng đóng một vai trò không nhỏ trong phòng và điều trị virus corona, đó là giải pháp nâng cao miễn dịch và sức đề kháng của cơ thể giúp công tác điều trị bệnh hiệu quả hơn. Đồng thời hệ miễn dịch - sức đề kháng và thể trạng cơ thể tốt thì có thể chống được căn bệnh này.
Video đang HOT
Thế giới đang vật lộn với chủng mới của virus corona, dịch bùng phát nhanh và hết sức phức tạp, chỉ trong một thời gian ngắn có trên 500 người chết, trên 28.000 người nhiễm dịch bệnh và 27 quốc gia, vùng lãnh thổ xuất hiện bệnh. Tình hình dịch bệnh chưa có dấu hiệu bị đẩy lùi, vì những ca mắc mới vẫn luôn xuất hiện và rất lớn. Ở Việt Nam đã có ca thứ 15 mắc bệnh, con số này có thể còn tăng lên nếu không có các giải pháp căn cơ, phối hợp đồng bộ từ nhiều bộ ngành và các cấp chính quyền từ trung ương tới địa phương.
Dinh dưỡng đóng một vai trò không nhỏ trong phòng và điều trị virus corona, đó là giải pháp nâng cao miễn dịch và sức đề kháng của cơ thể giúp công tác điều trị bệnh hiệu quả hơn.Đồng thời hệ miễn dịch - sức đề kháng và thể trạng cơ thể tốt thì có thể chống được căn bệnh này. Các nguyên tắc của chế độ ăn nâng cao miễn dịch phòng bệnh viêm phổi Vũ Hán, bệnh nhiễm khuẩn như:
Không có một thức ăn nào là hoàn hảo và có đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết theo nhu cầu cơ thể, vì vậy cần đa dạng, phối hợp từ 15 - 20 loại thực phẩm và thay đổi thường xuyên trong bữa ăn hàng ngày. Khẩu phần ăn hàng ngày nên có sự phối hợp ở tỷ lệ cân đối giữa nguồn chất đạm động vật và thực vật (thịt, cá, trứng, sữa, tôm, cua, hải sản... đậu (đỗ)...).
Ngoài ra, nên ăn cả dầu thực vật và mỡ động vật ở tỷ lệ cân đối trong khẩu phần ăn. Tăng cường ăn vừng, lạc, đậu, rau xanh và hoa quả chín. Ăn đủ nhu cầu, cần phân chia hợp lý các bữa ăn trong ngày (tùy theo lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, mức độ lao động). Chế độ ăn đảm bảo đủ các nhóm thực phẩm:
Lương thực: gạo, đặc biệt là gạo lứt không bị xay xát kỹ, vẫn còn lớp cám gạo bên ngoài hạt gạo, có chứa hàm lượng dinh dưỡng cao hơn (các vitamin nhóm B nhất là vitamin B1, chất xơ). Năng lượng từ ngũ cốc chỉ nên chiếm 55 - 67% (tổng năng lượng khẩu phần, phần còn lại do các chất béo cung cấp chiếm 20 - 25% và 13 - 20% là từ chất đạm).
Chất đạm: cần ăn phối hợp cả thực phẩm giàu đạm động vật từ các loài gia súc, gia cầm, hải sản và đạm thực vật từ các loại đậu... Nên ăn thức ăn giàu đạm với tỷ lệ cân đối giữa nguồn đạm động vật và thực vật, tăng cường ăn đậu phụ và cá. Các loại thịt đỏ (như thịt lợn, thịt bò...) có nhiều sắt giúp phòng chống thiếu máu thiếu sắt, đặc biệt quan trọng đối với trẻ nhỏ, phụ nữ có thai và phụ nữ tuổi sinh đẻ.
Ăn thịt ở mức vừa phải (không quá 100g/ngày/người trưởng thành, trung bình 1,5kg thịt/tháng).Các loại thịt đỏ không sử dụng quá 10% năng lượng, ưu tiên thịt gia cầm. Khuyến khích ăn cá, đậu phụ: ít nhất 3 bữa cá/tuần, trung bình 2,5kg cá/tháng và 2 - 3kg đậu phụ/tháng.
Chất béo: cần đảm bảo một tỷ lệ cân đối giữa nguồn chất béo động vật (mỡ lợn, mỡ gà...) và chất béo thực vật (dầu, đậu tương, vừng, lạc...). Nên giữ trong khẩu phần hàng ngày ít nhất là 40% chất béo thực vật, chất béo động vật không nên vượt quá 60%, nên ăn phối hợp cả mỡ động vật và dầu thực vật, không nên thay thế hoàn toàn mỡ động vật bằng các chất béo thực vật. Mỗi người trưởng thành mỗi ngày trung bình nên ăn khoảng 25 - 30g dầu, mỡ tương đương 5 - 6 thìa cà phê dầu, mỡ.
Rau và quả chín: Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo nên ăn từ 400 - 600g rau quả mỗi ngày; rau quả là nguồn cung cấp các vitamin - khoáng chất và chất xơ. Vitamin và chất khoáng rất cần thiết cho sức khỏe con người, cơ thể chỉ cần một lượng rất nhỏ nhưng nó có vai trò rất quan trọng.
Nếu cơ thể thiếu vitamin và chất khoáng có thể dẫn tới một số bệnh và giảm khả năng miễn dịch chống lại các virus, vi khuẩn gây bệnh. Vitamin và khoáng chất giúp nâng cao sức đề kháng và miễn dịch, phải kể đến các vitamin tan trong chất béo đó là: vitamin A và vitamin E, chất khoáng là sắt, kẽm,... Sử dụng các loại thực phẩm có kháng sinh tự nhiên như hành, tỏi, sả, lá mơ,...Có thể dùng từ 2 - 3 nhánh tỏi sống trong bữa ăn hoặc dùng khi chế biến thức ăn.
Giải pháp nâng cao miễn dịch và sức đề kháng của cơ thể giúp công tác điều trị bệnh hiệu quả hơn
Một số vitamin và khoáng chất nâng cao sức đề kháng
Vitamin A: người ta còn gọi là "vitamin chống nhiễm khuẩn, virus" có vai trò rõ rệt cả với miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào. Tỷ lệ tử vong do nhiễm khuẩn ở trẻ em mà nguyên nhân do thiếu vitamin A rất cao. Thiếu vitamin A liên quan chặt chẽ đến suy dinh dưỡng (tăng trưởng kém), tăng nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng và tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ em. Những nghiên cứu gần đây đã khẳng định rằng biện pháp bổ sung vitamin A có thể làm giảm 23% tử vong ở trẻ em.
Vai trò của vitamin A với đáp ứng miễn dịch được thể hiện ở vai trò của vitamin A với tính toàn vẹn của các biểu mô. Thiếu vitamin A các biểu mô quá sản, sừng hóa, các tuyến ngoại tiết giảm bài tiết, khả năng ngăn cản sự xâm nhập của vi khuẩn giảm đi. Da và niêm mạc khô dẫn đến dễ nhiễm khuẩn.
Đồng thời, nếu bôi mỡ có chứa vitanmin A vào các tổn thương ở da có tác dụng thúc đẩy quá trình nhanh liền sẹo. Vitamin A có nhiều trong gấc, rau ngót, rau dền cơm, gan gà, gan lợn, gan bò,...
Vitamin E: vitamin E làm tăng tính miễn dịch bằng cách bảo vệ tế bào khỏi bị tổn thương, do đó tăng sức đề kháng của cơ thể với các bệnh nhiễm khuẩn mạnh hơn, làm chậm tiến triển bệnh sa sút trí tuệ (Alzheimer), bảo vệ vitamin A và chất béo của màng tế bào khỏi bị oxy hóa, tham gia vào chuyển hóa tế bào. Vitamin E bảo vệ các chất béo trong não khỏi các gốc tự do, đặc biệt là các chất béo omega-3 DHA và EPA, trong đó tập trung ở tế bào thần kinh.
Bên cạnh việc bảo vệ tế bào thần kinh, vitamin E cũng có liên quan đến phòng chống bệnh ung thư và bảo vệ tim mạch.
Vitamin E có nhiều trong các thực phẩm nguồn gốc tự nhiên như đậu tương, giá đỗ, vừng, lạc, mầm lúa mạch, dầu hướng dương, dầu ô-liu và các loại rau có lá màu xanh đậm.
Vitamin C: tăng cường miễn dịch, hỗ trợ sản xuất interferon là loại protein do tế bào cơ thể tạo ra để chống lại tác nhân gây bệnh, là thành phần đạm quan trọng của hệ miễn dịch.
Thiếu vitamin C, sự nhạy cảm với các bệnh nhiễm khuẩn tăng lên. Người bị nhiễm khuẩn, vitamin C trong máu thường giảm, thiếu vitamin C, tính thấm mao mạch tăng, mạch dễ vỡ, da khô ráp.
Nếu ăn đủ vitamin C, các glubulin miễn dịch IgA và IgM tăng, hoạt tính của bạch cầu tăng, kích thích chuyển dạng các lymphô bào và giúp tạo thành các bổ thể. Vitamin C giúp tăng hấp thu các chất khoáng vi lượng (sắt, kẽm...) là những vi chất dinh dưỡng cần thiết cho hoạt động trí não.
Hơn 90% lượng vitamin C có trong khẩu phần ăn được cung cấp từ các loại trái cây và rau củ. Các thực phẩm giàu vitamin C: rau ngót, rau mùi tàu, rau dền, rau đay, rau mồng tơi, hành hoa,... trong các loại quả như bưởi, đu đủ, quýt, cam, chanh,...
Vitamin nhóm B: trong các vitamin nhóm B, vai trò các folat và pyridoxin đáng chú ý hơn cả. Thiếu folat làm chậm sự tổng hợp của các tế bào tham gia vào các cơ chế miễn dịch.Tương tự như thiếu sắt, miễn dịch dịch thể ít bị ảnh hưởng hơn miễn dịch qua trung gian tế bào.
Trên thực tế ở trẻ em, nhất là phụ nữ có thai, thiếu folat thường đi kèm thiếu sắt là 2 yếu tố gây thiếu máu dinh dưỡng. Thiếu pyridoxin (vitamin B6) làm chậm các chức năng miễn dịch, cả dịch thể và trung gian tế bào. Các vitamin nhóm B có nhiều trong cám gạo, ngũ cốc, các loại hạt đậu, mè, mầm lúa mì, tim, gan.
Cần đa dạng, phối hợp từ 15 - 20 loại thực phẩm và thay đổi thường xuyên trong bữa ăn hàng ngày
Một số chất khoáng và miễn dịch
Rất nhiều chất khoáng và vi khoáng tham gia vào miễn dịch, trong đó vai trò của sắt, kẽm được nghiên cứu nhiều hơn cả.
Sắt: cần thiết cho tổng hợp gien di truyền ADN, nghĩa là nó cần thiết cho quá trình phân bào. Ngoài ra, sắt còn tham gia vào nhiều enzym can thiệp vào quá trình phân giải bên trong tế bào.
Thiếu sắt, nhiễm khuẩn tăng. Thiếu sắt thường kèm theo thiếu protein - năng lượng, do vậy khi bổ sung sắt cho trẻ em suy dinh dưỡng cần chú ý sau khi đã phục hồi dinh dưỡng từ 5 - 7 ngày, nếu không sắt tự do sẽ là yếu tố thuận lợi cho phát triển các vi khuẩn.
Sắt gây ảnh hưởng đến miễn dịch qua trung gian tế bào hơn là miễn dịch dịch thể. Do đó tiêm chủng để chống các bệnh nhiễm khuẩn vẫn có tác dụng ở những trẻ em bị thiếu sắt vừa phải.
Ở nơi có bệnh sốt rét, việc bổ sung sắt cần đi kèm với uống thuốc phòng sốt rét. Sắt có nhiều trong mộc nhĩ, nấm hương, rau dền đỏ, đậu tương, tiết bò, bầu dục lợn, lòng đỏ trứng vịt, cua đồng...
Kẽm: kẽm có vai trò sinh học rất quan trọng là tác động chọn lọc lên quá trình tổng hợp, phân giải acid nucleic và protein. Kẽm giúp tăng cường miễn dịch, giúp làm vết thương mau lành và giúp duy trì vị giác, khướu giác.Kẽm tham gia vào hàng trăm enzym chuyển hóa trong cơ thể, vì vậy khi thiếu kẽm trẻ dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp, tiêu hóa do giảm sức đề kháng.Ngoài ra, khi thiếu kẽm trẻ thường có biểu hiện biếng ăn, chậm lớn, chậm phát triển chiều cao. Các thức ăn giàu kẽm như thịt, cá, tôm, sò, sữa, trứng, ngao, hàu...
Khi lựa chọn thực phẩm và chế biến thức ăn: thực phẩm lựa chọn phải tươi sống; không ăn những loại gia cầm và gia súc bị chết do nhiễm bệnh. Không ăn khi thực phẩm còn sống: ăn tái, ăn gỏi, tiết canh, trứng ốp la, trứng lòng đào,...
Cần ăn chín, uống sôi (nước sôi để nguội nếu trời nóng, nước ấm khi trời lạnh). Thực hiện 10 lời khuyên vàng trong chế biến thực phẩm, đặc biệt là vệ sinh dao thớt và rửa tay bằng xà phòng trước, trong, sau khi chế biến thực phẩm. Các thức ăn cần nấu chín kỹ, chế biến dạng lỏng, hay mềm, dễ tiêu hóa và theo sở thích của từng người.
Uống đủ nước theo nhu cầu, từ 2 lít - 2,5 lít nước/người. Có thể dùng nước chanh, nước cam, nước sả, nước gừng... tùy theo cơ thể mỗi người. Giữ vệ sinh cá nhân sạch sẽ, thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, nhỏ mắt bằng nước muối sinh lý. Thường xuyên vệ sinh đường hô hấp trên thông thoáng, sạch sẽ bằng nước súc miệng, hoặc nước muối sinh lý.
Không nên tới chỗ đông người khi không cần thiết, đặc biệt những điểm du lịch, lễ hội vì dễ tiếp xúc nguồn lây nhiễm. Khi hắt hơi, sổ mũi, ho cần che miệng hoặc dùng khăn tiệt trùng lau và vứt vào sọt rác, đồng thời rửa và làm khô tay. Thường xuyên đeo khẩu trang đúng kỹ thuật khi ra ngoài, đến chỗ đông người, tiếp xúc với người khác.
Vitamin và khoáng chất trong bữa ăn hàng ngày có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao sức đề kháng của cơ thể, giảm nguy cơ nhiễm virus corona, Covid-19, bệnh nhiễm trùng và giảm tỷ lệ tử vong.
Ngoài ra, nên bổ sung các dạng siro, hay dạng cốm đa vitamin- khoáng chất khác cho trẻ em, hay viên đa vitamin khoáng chất cho người lớn giúp cho nâng cao sức đề kháng và miễn dịch, mà trong thành phần các sản phẩm dinh dưỡng này còn có các thành phần như vitamin A, E, C, kẽm, selen..., trong đó quan trọng hơn cả là vitamin A, C và kẽm.
ThS.BS. NGUYỄN VĂN TIẾN
Theo SK&ĐS
Dinh dưỡng cho học sinh ôn thi trong những ngày nắng nóng, oi bức Do đợt nghỉ dịch COVID-19 vừa qua kéo dài, nên các em học sinh phải đi học và trải qua các kỳ thi học kỳ, thi chuyển cấp vào mùa hè nắng nóng năm nay... Vậy cha mẹ, nhà trường cần duy trì chế độ dinh dưỡng như thế nào để tốt cho trẻ. Dưới đây sẽ là lời khuyên của Ths.Bs Nguyễn...