Đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam ‘nửa Âu, nửa Mỹ’
Phát biểu tại Hội thảo Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ tiếp cận với trình độ quốc tế, PGS-TS Nguyễn Hội Nghĩa – Phó Giám đốc ĐHQG TP HCM, nhận xét: Mô hình đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam hiện nay vừa giống châu Âu, vừa giống Mỹ, nửa này nửa kia”.
ảnh minh họa
Ông cũng cho biết ĐHQG luôn ủng hộ, khuyến khích các trường đào tạo tất cả các trình độ cao nhất có thể. Theo PGS-TS Hội Nghĩa, hiện nay, vấn đề đào tạo tiến sĩ ở nước ta cần quan tâm đến 4 yếu tố lớn: Công tác quản lý, quản trị sau ĐH, trong đó có tiến sĩ; đội ngũ giảng viên tham gia đào tạo cần có chất lượng, uy tín nhằm thu hút nghiên cứu sinh chất lượng cao; hoạt động chuyên môn cụ thể, chương trình đào tạo chất lượng và công tác cơ sở vật chất – tài chính đảm bảo.
Trong khi đó, PGS-TS Lê Trung Chơn – Trưởng Phòng Đào tạo Sau ĐH, Trường ĐH Bách khoa-ĐHQG TP HCM – nêu một số thách thức trong công tác đào tạo tiến sĩ tại trường. Trong đó, khó khăn thách thức đầu tiên là quy chế đào tạo tiến sĩ mới. Tiếp đó, có sự cạnh tranh mạnh giữa các trường ĐH về nguồn tuyển sinh sau ĐH, nhất là thạc sĩ. Mặt khác với sự tham gia của các ĐH nước ngoài cũng là thách thức cho các trường ĐH trong nước. Chính sách học phí và đầu tư chưa phù hợp, đội ngũ giảng viên còn thiếu trong khi phải tăng cường quy mô và sức cạnh tranh… cũng là những yếu tố được nhắc đến.
Để nâng cao chất lượng đào tạo trình độ tiến sĩ nhằm tiếp cận trình độ quốc tế, PGS-TS Vũ Ngọc Út, PGS-TS Mai Văn Nam, Trường ĐH Cần Thơ, đề xuất các trường cần tuyển chọn ứng viên theo hướng cân nhắc năng lực cá nhân trên cơ sở xem xét năng lực học tập ĐH hoặc thạc sĩ; tuân thủ việc tuyển chọn ứng viên theo quy định mới của Bộ GD-ĐT, tăng thời gian tập trung để nghiên cứu sinh thực hiện nghiên cứu khoa học và đề tài luận án, mở rộng hợp tác quốc tế tạo nguồn kinh phí để phát triển nghiên cứu khoa học và gắn kết, nâng cao chất lượng đào tạo. Ngoài ra,nghiên cứu sinh cần đa dạng nguồn kinh phí trong nghiên cứu khoa học bằng cách chủ động tìm nguồn kinh phí thực hiện luận án từ các đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, địa phương và các tổ chức quốc tế…
Video đang HOT
Đáng chú ý, tại hội thảo, Ông Nguyễn Tấn Đại – tiến sĩ khoa học giáo dục, ĐH Strasbourg (Pháp), nhà nghiên cứu độc lập về khoa học giáo dục và truyền thông khoa học, cũng nêu quan điểm phản biện một số thông tin trên báo chí thời gian qua về đề án 911. Theo đó, mục tiêu của đề án là nâng tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ công tác tại các trường ĐH và CĐ sư phạm lên 30% vào năm 2025. “Nhiều ý kiến phản biện cho rằng số lượng tiến sĩ trong nước đã quá nhiều (24.300 người) nhưng chất lượng không tương xứng và đề án chạy theo số lượng. Tuy nhiên, muốn đánh giá số lượng tiến sĩ nhiều hay ít, không thể nhìn vào những con số tuyệt đối bao nhiêu người một năm, mà cần dựa trên tổng thể quy mô nền giáo dục của một quốc gia”, ông Đại phân tích.
Theo ông Đại, số liệu thống kê cho thấy số trường ĐH và số lượng sinh viên nước ta tăng liên tục trong 15 năm qua, đặc biệt từ 2005. Trong khi đó, số giảng viên ĐH và giảng viên có trình độ tiến sĩ chỉ tăng ở mức độ vừa phải. Thậm chí, trong tương quan chung với tổng thể quy mô nền giáo dục ĐH thì tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ có xu hướng giảm chứ không tăng (từ trên 19% năm 2000 xuống xấp xir 14% những năm 2009-2013 và chỉ mới tăng lại 20% năm 2017. Đồng thời, Ông Nguyễn Tấn Đại cũng đưa ra nhiều bảng thống kê chứng minh so với thế giới, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo chuyên môn, kỹ thuật trong dân số Việt Nam là rất thấp. Ông Đại cũng phản bác thông tin báo chí trong thời gian qua cho rằng ngân sách đào tạo dành cho đề án 911 là quá cao, lãng phí. “So với thống kê sơ bộ về tổng sản phẩm trong nước năm 2016, chi phí tổng cộng cho đề án 911 chỉ chiếm khoảng 0,07% của cả GDP và GNI thực tế năm 2016. Như vậy, khoản đầu tư cho tương lai này không phải là quá nhiều”, TS Đại nhấn mạnh.
Điểm mới của quy chế đào tạo tiến sĩ
Tại hội thảo, TS Đào Hiền Chi, Vụ Giáo dục ĐH, Bộ GD-ĐT, cũng thông tin về một số điểm chính của Quy chế đào tạo tiến sĩ ban hành theo TT10 của Bộ GD-ĐT. Trong đó, bà Chi nêu một số điểm mới trong quy chế như: Không hạn chế số lần tuyển sinh; hình thức tuyển sinh đa dạng gồm xét tuyển, thi tuyển hoặc kết hợp cả hai; điều kiện đầu vào của người dự tuyển là phải có bằng cử nhân loại giỏi trở lên, có tối thiểu một bài báo/báo cáo công bố trong vòng 36 tháng tính đến ngày đăng ký dự tuyển; có trình độ ngoại ngữ ở mức nhất định (nếu là tiếng Anh thì phải có chứng chỉ TOEFL iBT từ 45 trở lên hoặc chứng chỉ IELTS – Academic Test từ 5.0 trở lên).
Theo NLĐ
Bộ GD&ĐT siết chặt đào tạo tiến sĩ
Bộ GD&ĐT vừa chính thức ban hành quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ, có hiệu lực từ ngày 18/5.
Quy chế mới nâng cao những quy định về trình độ ngoại ngữ, minh chứng về khả năng, kinh nghiệm nghiên cứu khoa học đối với ứng viên dự tuyển, nghiên cứu sinh, giảng viên và người hướng dẫn.
Ứng viên dự tuyển phải có trình độ ngoại ngữ đầu vào (đặc biệt là tiếng Anh) đạt mức độ nhất định để đảm bảo có thể nghiên cứu, tham khảo tài liệu của nước ngoài trong quá trình hoàn thiện luận án.
Bộ GD&ĐT siết chặt việc đào tạo tiến sĩ. Ảnh minh họa.
Bên cạnh đó, nghiên cứu sinh cũng phải công bố kết quả nghiên cứu của luận án trong các tạp chí khoa học thuộc danh mục các tạp chí ISI-Scopus hoặc báo cáo trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện hay trong các tạp chí khoa học nước ngoài.
Quy chế mới quy định: Giảng viên dạy các học phần trong chương trình đào tạo tiến sĩ đã hoặc đang chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ thấp nhất cấp cơ sở hoặc các nhiệm vụ khoa học công nghệ thấp nhất cấp bộ. Người hướng dẫn đã hoặc đang chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp cơ sở trở lên.
Minh chứng về nghiên cứu khoa học của người hướng dẫn thể hiện ở việc họ là tác giả chính của các bài báo hoặc công trình công bố trong các tạp chí thuộc danh mục các tạp chí ISI -Scopus hoặc một chương sách tham khảo có mã số ISBN của các nhà xuất bản nước ngoài phát hành hoặc trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện.
Quy chế cũng quy định người hướng dẫn độc lập phải là cán bộ cơ hữu của cơ sở đào tạo hoặc là nhà khoa học người nước ngoài, nhà khoa học Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài có hợp đồng giảng dạy, nghiên cứu khoa học.
Mỗi nghiên cứu sinh sẽ có tối đa hai người hướng dẫn, trong đó ít nhất phải có một người là giảng viên, nghiên cứu viên cơ hữu của cơ sở đào tạo. Tiêu chuẩn người hướng dẫn chính và người hướng dẫn phụ cũng được quy định rõ trong trường hợp đồng hướng dẫn.
Việc tổ chức đào tạo tiến sĩ được triển khai theo hình thức giáo dục chính quy, nghiên cứu sinh phải dành ít nhất 12 tháng theo học tập trung liên tục tại cơ sở đào tạo trong giai đoạn 24 tháng đầu, kể từ khi có quyết định công nhận nghiên cứu sinh.
Theo Zing
Sẽ lấy trình độ tiến sĩ ASEAN làm chuẩn Lãnh đạo Bộ GD&ĐT cho biết như vậy khi đề cập những điểm mới của dự thảo quy chế đào tạo tiến sĩ. Theo bà Nguyễn Thị Kim Phụng - Vụ trưởng Vụ giáo dục Đại học, Bộ GD&ĐT, đơn vị này đã triển khai nhiều hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ từ trước đó. Cụ thể, bộ...