Đào tạo Sư phạm: Nâng chất “đầu vào”, kiểm soát “đầu ra”
Công tác đào tạo nói chung và đào tạo trường sư phạm nói riêng là một nhiệm vụ hết sức quan trọng đòi hỏi người thầy phải hội tụ nhiều yếu tố: Năng lực chuyên môn, trình độ sư phạm lẫn phẩm chất của người thầy… Khi những người thầy càng có năng lực, chuyên môn cao thì chất lượng giáo dục càng được nâng cao.
Nâng cao chất lượng đầu vào
Ông Lê Như Tiến – Đại biểu Quốc hội khóa 12, 13, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội cho biết: Trong những năm trước đây theo cơ chế tập trung bao cấp thì giáo viên (GV) được tuyển chọn rất kỹ càng. Người được chọn vào học trong môi trường sư phạm cảm thấy rất vinh dự và tự hào. Thế nhưng trong thời gian gần đây, tôi nhận thấy, đầu vào của sinh viên (SV) sư phạm lại thấp hơn rất nhiều so với các ngành khác.
Do đầu vào thấp nên chất lượng chưa đảm bảo. Chất lượng chưa đảm bảo thì việc đào tạo sẽ gặp khó khăn hơn và chắc chắn đầu ra cũng sẽ bị ảnh hưởng, hạn chế. Đấy chính là nguyên nhân dẫn đến chất lượng đào tạo sư phạm cũng hạn chế hơn rất nhiều.
Nguyên nhân gốc rễ của vấn đề là do công tác tuyển sinh (đầu vào) của một số trường sư phạm địa phương quá dễ dãi. Do nhu cầu tuyển sinh của nhà trường mà tuyển sinh ồ ạt.
Thứ hai, trước kia khi còn thời kinh tế tập trung, SV sư phạm đào tạo ra bao nhiêu thì được phân công công tác bấy nhiêu. Gần như không có trường hợp nào lại không xin được việc hoặc không có việc làm. Nhưng bây giờ, tình trạng giáo viên ra trường thất nghiệp, không có nơi để giảng dạy, hành nghề là rất nhiều.
Đó chính là khâu yếu của việc cân đối giữa cung và cầu. Giữa tuyển sinh và địa chỉ đến – tức là đầu vào và đầu ra chưa được cân đối. Nếu tuyển sinh vào học xong khi ra trường không có nơi làm việc, không có nơi hành nghề khiến nhiều SV sư phạm chán nản và buộc phải xin việc làm trái nghề.
Thứ ba đó là chế độ chính sách. Tôi nhìn rộng ra thì thấy chế độ chính sách của một số ngành rất là cao. Họ có chế độ: Dưỡng liêm, phụ cấp được nhân hệ số cao… Nhưng với GV tôi thấy chế độ thang, bậc lương của GV hiện nay vẫn còn thấp. Đó chính là cái mà chúng ta kiến nghị để cải cách tiền lương trong đợt này. Cho nên cần phải cân nhắc rất kỹ khi nâng hệ số lương của GV lên để cho GV có thể đủ nuôi mình và con cái họ. Để họ yên tâm công tác, chứ không để tình trạng phải dạy thêm, học thêm tràn lan nữa.
Video đang HOT
Một khi đồng lương của người GV không đủ sống, họ phải dạy thêm không nằm trong quy định của pháp luật như trong thời gian vừa qua buộc chúng ta phải rung lên hồi chuông cảnh báo. Hay lại là chuyện một số trường đã thu các khoản đầu năm lớn hơn rất nhiều so với quy định… Có những trường lạm thu đã lên đến cả chục triệu đồng/học sinh vào dịp đầu năm học thì phụ huynh học sinh nào chịu nổi? Đó cũng chính là bất cập.
Nguyên nhân thì còn nhiều nguyên nhân, nhưng tôi cho rằng, có một nguyên nhân rất cơ bản đó là đồng lương của GV chưa đủ sống. Cuộc sống của họ còn rất thiếu thốn cho nên họ cũng phải tìm cách này, cách kia để kiếm sống. Tất nhiên là cách này, cách kia là sai nhưng nếu như đồng lương mà đảm bảo cuộc sống cho thầy cô giáo, thì chắc chắn tiêu cực: tình trạng dạy thêm – học thêm, tình trạng lạm thu… trong giáo dục sẽ giảm đi rất nhiều.
Đảm bảo yếu tốt đầu ra
Ông Lê Như Tiến: “Chúng ta không thể vơ đũa cả nắm khi nói đến chất lượng giáo dục đào tạo tại các trường sư phạm là chưa tốt. Tôi thấy rằng một số trường sư phạm có chất lượng đào tạo khá tốt như: Trường đại học Sư phạm Hà Nội; Trường đại học Sư phạm Hà Nội 2; Trường đại học Sư phạm Vinh; Trường đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh; Trường đại học Sư phạm Thái Nguyên; Trường đại học Sư phạm Huế; Trường đại học Sư phạm Nha Trang… và một số trường cao đẳng sư phạm ở một số khu vực họ đã rất tuân thủ nghiêm chỉnh về quy định chất lượng đào tạo và chuẩn khâu tuyển sinh GV đầu vào và đảm bảo chất lượng GV đầu ra.
Thế nhưng, cũng còn một số các trường cao đẳng sư phạm, trung cấp sư phạm địa phương dường như việc tuân thủ về quy định chất lượng còn chưa đảm bảo. Khâu tuyển sinh chưa nghiêm ngặt lựa chọn để đảm bảo được yếu tố đầu vào, cho nên ảnh hưởng tới yếu tố chất lượng đầu ra. Hơn nữa, các tiêu chí chuẩn của một GV đầu ra cũng còn mai một, hạn chế.
Ngoài ra, tôi cũng được thông tin nhiều về một số trường cao đẳng sư phạm, trung cấp sư phạm ở một số địa phương trong việc quản lý SV còn lỏng lẻo; Việc đánh giá chất lượng SV đôi khi còn dễ dãi; Cho điểm cũng rất dễ dãi, chưa nghiêm khắc, chưa thật sự đòi hỏi SV phải rèn luyện cả về kỹ năng sư phạm lẫn trình độ chuyên môn nghiệp vụ… Một khi đầu vào thấp, trong quá trình học tập rèn luyện lại dễ dãi, chưa thật sự nỗ lực thì chắc chắn đầu ra sẽ không đảm bảo, thấp là chuyện đương nhiên.
Hiện nay, vẫn có nhiều giáo sinh về các cơ sở GD-ĐT xin việc nhưng chưa được các cơ sở GD-ĐT mặn mà tiếp nhận bởi họ e ngại về năng lực và trình độ của giáo sinh đó. Nếu tiếp nhận, các cơ sở GD-ĐT này cũng yêu cầu giáo sinh đó phải tự đào tạo và đào tạo lại. Nguyên nhân này là lỗi không nhỏ của các trường sư phạm chưa đạt chuẩn yếu tố đầu vào và cũng chưa có những hướng dẫn chuẩn đầu ra của giáo sinh.
Để đảm bảo chất lượng đầu vào và đầu ra cho các trường sư phạm, thiết nghĩ, Bộ GD&ĐT là cơ quan quản lí Nhà nước phải có những hướng dẫn về chuẩn đầu vào của SV sư phạm. Đồng thời, cũng phải có những văn bản hướng dẫn về chuẩn đầu ra của một giáo sinh để cho họ có thể đạt được chuẩn.
Hiền Anh (ghi)
Theo giaoducthoidai.vn
Quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên phổ thông: Động lực để nhà giáo yêu nghề
Dự thảo Thông tư quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên phổ thông của Bộ GD&ĐT đưa ra với đầy đủ hệ thống các yêu cầu cơ bản đối với giáo viên phổ thông từ phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; đến năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và ngoại ngữ, tin học; năng lực xây dựng môi trường giáo dục dân chủ và năng lực phát triển quan hệ xã hội.
Hợp lý và thiết thực
Ở tỉnh Quảng Ninh, NGND Lưu Xuân Giới ghi nhận và đánh giá cao các chuẩn giáo viên được Dự thảo đưa ra, với 5 tiêu chuẩn nghề nghiệp và 15 tiêu chí cho giáo viên phổ thông. Ông phân tích: Với Tiêu chuẩn 1 về "Phẩm chất nghề nghiệp", yêu cầu giáo viên phải yêu thương, tôn trọng, thân thiện với HS; giữ gìn đạo đức, uy tín, lương tâm nhà giáo. Điều này với nhà giáo là kim chỉ nam cho hành động, với một nhà giáo yêu nghề và trách nhiệm với nghề thì điều này hoàn toàn là hợp lý. Những ngày qua, trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng đưa nơi này, nơi kia có những nhà giáo chưa thực sự làm hết trách nhiệm của mình với nghề và học sinh.
Giám đốc Sở GD&ĐT tỉnh Nam Định Cao Xuân Hùng, đánh giá cao về Tiêu chuẩn 2 trong đó yêu cầu "Năng lực chuyên môn, ngoại ngữ và ứng dụng công nghệ thông tin", đòi hỏi giáo viên có kiến thức, kĩ năng về chuyên môn, ngoại ngữ, tin học đáp ứng chuẩn trình độ đào tạo và yêu cầu dạy học, GD. Lý giải về điều này, ông cho rằng: "Trong kỷ nguyên kỹ thuật số, thế giới đang bước vào cuộc CMCN 4.0 thì những yêu cầu trên là tất yếu đối với nhà giáo. GD HS hướng tới toàn diện và phát triển năng lực cá nhân thì nhà giáo không thể thiếu một trong những yêu cầu này. Học sinh của chúng ta liên tục đạt thứ hạng cao tại các kỳ thi quốc tế, Việt Nam cũng luôn đứng đầu trong các kỳ thi đánh giá HS quốc tế (PISA). Vậy các thầy cô giáo không có những kiến thức chuyên môn vững, ngoại ngữ tin học yếu thì sao kịp thời cuộc".
Phân tích những mặt không thể thiếu của Tiêu chuẩn 3 về "Năng lực nghiệp vụ sư phạm", với yêu cầu giáo viên có kiến thức, kĩ năng nghiệp vụ sư phạm đáp ứng yêu cầu của hoạt động dạy học và GD, thầy Võ Hoàng Khải - Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Trà Vinh - cho rằng: Chúng ta đang yêu cầu ngày càng cao về chất lượng GD, vậy thì những yêu cầu chi tiết nhằm đánh giá chính xác năng lực nghiệp vụ cũng như khả năng sư phạm của từng thầy cô giáo là việc cần thiết.
Tiêu chuẩn 3 cũng có mối liên quan đến tiêu chuẩn 4, đó là "Năng lực xây dựng, thực hiện môi trường GD dân chủ", giáo viên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bản thân, xây dựng và phát triển môi trường dân chủ trong nhà trường.
Ông lý giải, với một nhà trường là môi trường sư phạm, nghiệp vụ sư phạm của thầy cô giáo cũng có mối tương tác với việc xây dựng môi trường giáo dục dân chủ với bản thân và đồng nghiệp. Một giáo viên giỏi, chắc chắn cũng sẽ là một đồng nghiệp tốt và trường đó cũng chắc chắn là một môi trường dân chủ.
Các thầy cô đứng lớp nói gì?
Đồng tình với chuẩn nghề nghiệp được Dự thảo đưa ra, cô Vũ Thị Phượng - Phó Hiệu trưởng Trường THPT Hòn Gai, TP Hạ Long (Quảng Ninh), cho rằng: Về chuẩn hiệu trưởng, so với chuẩn cũ, chuẩn mới đặt yêu cầu ở mức độ cụ thể, chi tiết sát với thực tiễn và đòi hỏi hiệu trưởng có phẩm chất, năng lực cao hơn. Hiệu trưởng phải độc lập, tự chủ, phát triển dẫn dắt nhà trường để thực hiện tốt quản lý nhà trường theo yêu cầu đổi mới CTPT sắp tới, như hướng dẫn giáo viên phát triển chương trình, tự chọn SGK, hướng dẫn dẫn dắt giáo viên trong việc quản lý hoạt động dạy học giáo dục theo mục tiêu của chương trình phổ thông mới...
Tuy nhiên, nhiều thầy cô giáo còn băn khoăn là các bước thực hiện như Bước 1: Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng tự đánh giá, xếp loại năng lực và lập kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng; Bước 2. Tổ chức cho cán bộ, giáo viên, nhân viên tham gia đánh giá hiệu trưởng, phó hiệu trưởng theo Chuẩn hiệu trưởng trường phổ thông. Bước 3. Kết luận đánh giá, xếp loại năng lực hiệu trưởng, phó hiệu trưởng trường phổ thông theo Chuẩn hiệu trưởng trường phổ thông. Hiệu trưởng kết luận cấp phó, thủ trưởng cơ quan quản lý cấp trên kết luận hiệu trưởng.
Những quy định này, là hoàn toàn hợp lý, đủ để đánh giá toàn diện từng cá nhân. Nhưng nhiều giáo viên cho rằng, kết quả thu được chưa chắc đã khách quan bởi lẽ những người tham gia đánh giá, vì nhiều lý do, là nhân viên, là giáo viên chưa chắc đã thẳng thắn đánh giá hiệu trưởng, nếu vậy việc đánh giá khó có thể đạt được hiệu quả thực chất. Thế nên, việc đánh giá là công khai hay bằng phiếu kín cũng là điều cần thiết, làm thế nào để các thầy cô giáo đánh giá lãnh đạo của mình một cách khách quan nhất.
Trong tiêu chuẩn 1 có phần đánh giá phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của giáo viên với 3 tiêu chí. Nhiều giáo viên cho rằng dễ trùng lặp, không rõ ràng, nặng về định tính nên khó đánh giá. Việc lấy ý kiến của các bên liên quan do người trong đơn vị chủ trì, khó đạt được khách quan và bản thân những người tham gia ý kiến cũng chưa chắc đã thẳng thắn đánh giá thực chất; hơn nữa người đánh giá và người được đánh giá có thể bị mắc kẹt giữa sự chủ quan và phiến diện của chính mình khi đánh giá một phẩm chất chính trị hay đạo đức.
Cũng như vậy, trong tiêu chuẩn 2 với 3 tiêu chí, minh chứng cho các tiêu chí "có các chứng chỉ, bằng cấp", minh chứng này chưa thể hiện rõ được trình độ chuyên môn nghiệp vụ của hiệu trưởng. Hay như minh chứng là các "bài báo, chuyên đề", nhiều hiệu trưởng không có nhưng không có nghĩa là hiệu trưởng ít kinh nghiệm, bởi vì không phải hiệu trưởng nào cũng được điều động đi làm báo cáo viên và việc viết các bài báo còn phụ thuộc vào việc "Hiệu trưởng có sở thích viết báo hay không".
Dĩ Hạ
Theo giaoducthoidai.vn
Làm cách nào phát huy sức mạnh, nhiệt huyết đội ngũ giảng viên trẻ? Đội ngũ giảng viên trẻ (GVT) là lực lượng nòng cốt, kế cận trong công tác đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng... Để phát huy tốt sức mạnh, khả năng, nhiệt huyết của họ, các trường đại học, cao đẳng phải có kế hoạch đào tạo và trọng dụng. Phải đưa việc bồi dưỡng, nâng cao năng lực, nghiệp vụ...