Đằng sau những tấm bằng và hệ lụy xã hội
Nhiều năm qua, “ chợ luận văn” vẫn hoạt động khá rầm rộ, kiểu bí mật giữa người bán người mua cũng có, kiểu công khai trên mạng cam kết phục vụ tận tình chu đáo cũng có.
Thế nhưng, không ai ngờ một luận văn thạc sĩ chỉ có giá 15 triệu đồng. Nghĩa là trong phong trào chạy đua bằng cấp, không chỉ người giàu mới có quyền nuôi tham vọng sở hữu những học vị sang chảnh.
Khi xã hội làm gì cũng đòi bằng cấp
Có cung ắt có cầu. Nếu không ai muốn cầm trên tay cái bằng thạc sĩ thì chẳng có cá nhân hoặc đơn vị nào lại hào hứng đi treo biển “viết thuê luận văn”. Nghĩa là chúng ta đang bị bủa vây bởi xu hướng học hành giả bằng cấp thật. Hay nói cách khác, bằng cấp thật mà kiến thức giả. Thật chẳng ai ngờ thời loạn bằng cấp, một luận văn thạc sĩ luôn được xem như nền tảng để phát triển thành luận án tiến sĩ mà lại mua bán dễ dàng như vậy sao?
Khi những chiếc ghế không được chứng minh năng lực thực sự, thì đành dựa dẫm bằng cấp. Trưởng phòng có bằng thạc sĩ thì giám đốc phải có bằng tiến sĩ.
Đơn giản, vì cộng đồng chưa có cơ chế nào để giám sát và kiểm tra các loại bằng cấp. Thạc sĩ tràn lan nhiều như nấm sau mưa. Bây giờ đã bớt dần những trường hợp liều lĩnh kiếm một cái bằng dỏm để nộp vào hồ sơ cán bộ, công chức, họ chấp nhận ghi danh đi học. Còn học ra sao đã có “chợ bằng cấp” lo.
Thật trớ trêu khi ngành nghề nào, đơn vị nào, tổ chức nào cũng liệt kê danh sách dài những cá nhân có học vị thạc sĩ hoặc tiến sĩ. Thậm chí, trường tiểu học hoặc trường trung học cũng có dăm bảy thạc sĩ và vài tiến sĩ. Những cái “sĩ” ấy để làm gì nhỉ? Ra oai chăng? Chưa hẳn, mục đích chính vẫn là để nâng cao lương bổng và lọt vào quy hoạch. Xã hội ưa chuộng bằng cấp nên người ta phải lao theo như thiêu thân.
Vì sao bổ nhiệm phải cần bằng cấp nọ hoặc học vị kia? Đó là điều không thể trả lời rành mạch, ngoài những cái lắc đầu ngán ngẩm. Khi những chiếc ghế không được chứng minh năng lực thực sự, thì đành dựa dẫm bằng cấp. Trưởng phòng có bằng thạc sĩ thì giám đốc phải có bằng tiến sĩ. Tâm lý ấy tạo ra ganh đua và hình thành cơn sốt bằng cấp.
Bao nhiêu thạc sĩ áp dụng được luận văn của mình vào công việc đang làm? Không mấy ai dám thẳng thắn bộc bạch. Có rất nhiều người làm luận văn thạc sĩ chẳng liên quan gì đến nghề nghiệp của họ, chỉ với tiêu chí… phòng thân. Khi cần thiết sẽ từ nấc thang thạc sĩ mà nhảy lên thành tiến sĩ. Vậy có bao nhiêu tiến sĩ khẳng định được giá trị luận án của họ với môi trường xung quanh? Quá nhạy cảm, hồi đáp kiểu nào cũng xót xa.
Thực tế, có không ít trường hợp cười ra nước mắt, khi người có học vị chỉ lặng lẽ nộp bằng tiến sĩ cho cơ quan, mà không bao giờ tự tin giới thiệu với người khác. Lý do, họ biết thân biết phận, họ biết cái bằng tiến sĩ ấy của mình hoàn toàn mang tính tượng trưng, còn trình độ thật của mình lại khiêm tốn hơn nhiều. Những người như vậy đáng thương hơn đáng trách, họ bị hệ lụy ưa chuộng bằng cấp kéo vào một hội chợ phù hoa mà chính họ cũng không làm chủ được bản thân.
Xót xa thân phận tiến sĩ
Thực trạng “thừa thầy thiếu thợ” đang đặt ra nhiều thách thức cho công cuộc xây dựng đất nước, thì càng nhiều tiến sĩ càng thấy xót xa.
Video đang HOT
Hiện nay khó mà thống kê hết bao nhiêu cơ sở có chức năng đào tạo sau bậc đại học. Vì vậy, cũng không thể thống kê số lượng thạc sĩ được cấp bằng mỗi nằm, tạm thời chỉ có những thống kê tương đối về số lượng tiến sĩ đang cực kỳ sôi động. Đáng sửng sốt nhất là Học viện Khoa học Xã hội có tốc độ sản xuất tiến sĩ rất kinh hoàng.
Trung bình cứ một ngày, Học viện Khoa học Xã hội cho ra đời thêm một tiến sĩ, trong đó có những luận án khiến công chúng ngạc nhiên như “Đặc điểm giao tiếp với dân của Chủ tịch ủy ban nhân dân xã”, hoặc “Hành vi nịnh trong tiếng Việt”. Đành rằng cái tên đề tài chưa hẳn nói lên đầy đủ phẩm chất của luận án Tiến sĩ, nhưng chọn đề tài như thế nào đã cho thấy tầm vóc của nghiên cứu sinh lẫn người hướng dẫn.
Tiến sĩ Vũ Thế Dũng, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Bách khoa TPHCM cho rằng: “Tên đề tài của luận án tiến sĩ cũng có thể đánh giá phần nào chất lượng nghiên cứu và khiến người đọc có thể đặt hoài nghi về đề tài.
Đánh giá một luận án sẽ trên một số phương diện như vấn đề nghiên cứu, đóng góp vào tri thức nhân loại của luận án, phương pháp nghiên cứu, kết quả. Tuy nhiên còn một thang đo nữa là bài báo khoa học được phản biện kín và cho xuất bản ở các tạp chí chuyên ngành. Nghiên cứu được xuất bản trên báo uy tín thì đó là luận án tốt”.
Như vậy với đề tài gây sốc thì đòi hỏi bài báo khoa học càng khó. Nhưng mỗi năm nước ta có được mấy bài báo khoa học in trên các tạp chí uy tín quốc tế? Nếu có nhiều, thì một đối tượng tự xưng “nhà báo quốc tế” như Lê Hoàng Anh Tuấn đã không bịa ra một tạp chí “Chống tham nhũng và hợp tác quốc tế” để chiêu dụ nhiều vị sính học hàm, học vị.
Đành rằng ngành giáo dục rất cần tiến sĩ để chuẩn hóa đội ngũ giảng dạy. Chỉ tiêu phấn đấu được đưa ra là đến năm 2020 đạt 25% giảng viên Đại học và 8% giảng viên Cao đẳng là tiến sĩ. Và tổng số giảng viên có trình độ tiến sĩ cần bổ sung trong giai đoạn 2018 – 2025 là khoảng gần 36.000 người. Xem ra, Việt Nam có nhiều tiến sĩ nhất thế giới, nhưng các công trình khoa học lại ít nhất thế giới. Thực trạng “thừa thầy thiếu thợ” đang đặt ra nhiều thách thức cho công cuộc xây dựng đất nước, thì càng nhiều tiến sĩ càng thấy xót xa.
Chất lượng sau đại học bị bỏ ngỏ?
Chỉ cần 15 triệu đồng có thể thuê người viết dùm luận văn thạc sĩ, là một hồi chuông cảnh tỉnh cho chất lượng giáo dục sau đại học. Bởi lẽ, từ vô số thạc sĩ ấy sẽ chuyển tiếp hằng hà tiến sĩ khác. Về mặt nhận diện, ai cũng biết luận án tiến sĩ phải đảm bảo các tiêu chí mang lại sự mới mẻ và sáng tạo, có thể về lý thuyết hoặc đề xuất giải pháp mới giải quyết vấn đề khoa học công nghệ, kinh tế xã hội.
Khác với luận văn thạc sĩ, tiến sĩ yêu cầu cái mới với mức độ khái quát hóa và chuyên sâu, với tác động phạm vi rộng hơn. Ngoài kết quả nghiên cứu, luận án tiến sĩ còn phải đóng góp phương pháp luận nghiên cứu, giúp cộng đồng vận dụng phương pháp đó để giải quyết các vấn đề khác.
Thế nhưng, trong số gần 30.000 tiến sĩ hiện nay, không mấy luận án tiến sĩ có đóng góp gì mới cho tri thức nhân loại nhằm lấp một khoảng trống lý thuyết nào đó mà giới nghiên cứu chưa giải quyết được, chứ đừng nói đến tính thực tiễn. Không khó để nhận ra nhiều luận án tiến sĩ đề tài dễ dãi, vô thưởng vô phạt mà nghiên cứu sinh chỉ mong lấy cái học vị, chứ không yêu cầu củng cố thêm kiến thức.
Tiến sĩ Lê Trung Chơn, Trưởng phòng Đào tạo sau ĐH Trường ĐH Bách khoa TPHCM, nhận định: “Luận án tiến sĩ là một công trình khoa học sáng tạo, điểm mới của nó phải được thể hiện qua những công bố khoa học mang tính quốc tế. Riêng với nghiên cứu về công nghệ, đề tài còn phải đưa ra giải pháp công nghệ mới được kiểm định bởi thực nghiệm, và cao hơn phải có bản quyền sở hữu trí tuệ”.
Nếu tiến sĩ ngành khoa học kỹ thuật còn có những yêu cầu khắt khe, thì tiến sĩ ngành khoa học xã hội lại rất mơ hồ. Có nhiều luận án na ná nhau cả về đề tài lẫn dẫn chứng. Đặc biệt, nhiều tiến sĩ văn chương và tiến sĩ ngôn ngữ khi viết một văn bản cũng không che giấu được sự vụng về và chệch choạc.
Giáo sư Trần Văn Thọ từ ĐH Waseda (Tokyo, Nhật Bản) từng có nhiều kiến nghị gửi Bộ Giáo dục – Đào tạo, để có giải pháp kiểm chất sự xuất hiện đại trà của các loại tiến sĩ, nhất là tiến sĩ chuyên ngành kinh tế: “Luận án tiến sĩ không nhằm nghiên cứu một vấn đề thực tiễn áp dụng ngay cho việc phát triển xã hội, kinh tế kiểu như làm sao thu hút đầu tư nước ngoài, hoặc làm sao một địa phương có thể trồng lúa 3 vụ.
Luận án tiến sĩ phải có tính học thuật, triển khai bằng ngôn ngữ khoa học, bằng những khung lý luận cơ bản trong ngành và gói ghém có phê phán tất cả các lý luận, các kết quả mà các công trình nghiên cứu trước đã đạt được liên quan đến đề tài của mình.
Quan trọng nhất là luận án phải có tính “độc sáng” (originality), đặt ra được những vấn đề mới, đưa ra được những giả thuyết hay lý luận mới và kiểm chứng bằng những tư liệu mới”. Tất nhiên, ý kiến tâm huyết của Giáo sư Trần Văn Thọ chỉ nhận lại sự thở dài cho nhu cầu đại nhảy vọt tiến sĩ của thời hội nhập.
Xét cho cùng, chuyện ưa chuộng bằng cấp cũng giống như chuyện thèm khát danh hiệu. Phô trương học vị và ồn ào nhan sắc, không phải là cơ sở để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Không một xứ sở văn minh nào lại theo đuổi kế hoạch bình dân hóa tiến sĩ và quần chúng hóa hoa hậu.
LÊ THIẾU NHƠN
Theo SGGP
Thanh tra "ra" gần 100 trường hợp chưa đủ tiêu chuẩn ở Bộ Tài nguyên và Môi trường
Theo kết luận của Thanh tra Bộ Nội vụ, trong việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý của Bộ Tài nguyên và Môi trường còn tồn tại, thiếu sót về điều kiện, tiêu chuẩn; đặc biệt có gần 100 trường hợp bổ nhiệm thiếu bằng cấp, chứng chỉ.
Trụ sở Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Thanh tra Bộ Nội vụ vừa ban hành Thông báo số 372/TB-TTBNV kết luận thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý biên chế công chức; tuyển dụng công chức, viên chức (CCVC); bổ nhiệm CCVC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý...tại Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT), giai đoạn từ ngày 01/01/2016 đến ngày 30/9/2018.
Theo đánh giá của Thanh tra Bộ Nội vụ, nhìn chung việc quản lý biên chế công chức, số lượng người làm việc được Bộ TN&MT và các đơn vị thực hiện theo quy định. Các đơn vị hành chính thuộc, trực thuộc Bộ TN&MT không ký hợp đồng lao động (HĐLĐ) làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ.
Tuy nhiên, trong công tác tuyển dụng công chức, qua kiểm tra 80 hồ sơ tuyển dụng công chức trong trường hợp đặc biệt, còn có Hội đồng kiểm tra, sát hạch có số lượng thành viên chưa đúng quy định; có 4 trường hợp không gửi văn bản thống nhất ý kiến Bộ Nội vụ trước khi tuyển dụng (các trường hợp này đều là lao động hợp đồng từ năm 2000, 2007).
Về tuyển dụng viên chức, qua kiểm tra 4 trường hợp xét tuyển đặc cách tại 3 đơn vị SNCL, các trường hợp được tuyển dụng đã đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định. Nhưng còn có đơn vị hồ sơ chưa thể hiện đầy đủ nội dung phỏng vấn và việc biểu quyết của các thành viên Hội đồng, không có văn bản báo cáo Bộ TN&MT phê duyệt kết quả xét tuyển.
Bên cạnh đó, Thanh tra Bộ Nội vụ cũng kiểm tra 28 kỳ xét tuyển viên chức của 12 đơn vị SNCL, kết quả tuyển dụng được 235 người.
Nhìn chung, việc tổ chức xét tuyển đã thực hiện theo quy định, nhưng vẫn còn có đơn vị không xây dựng và phê duyệt Kế hoạch tuyển dụng trước khi tổ chức tuyển dụng; một số đơn vị thực hiện thông báo tuyển dụng, nhận hồ sơ dự tuyển chưa đảm bảo theo quy định; thành lập Hội đồng xét tuyển và Ban kiểm tra, sát hạch trước khi hết hạn nhận hồ sơ dự tuyển; câu hỏi phỏng vấn không có đáp án...
Đặc biệt, trong công tác bổ nhiệm, Bộ TN&MT vẫn còn tồn tại, thiếu sót về điều kiện, tiêu chuẩn; về trình tự, thủ tục bổ nhiệm, bổ nhiệm lại.
Trong đó, có 1 trường hợp thiếu bằng cao cấp lý luận chính trị, 57 trường hợp thiếu bằng trung cấp lý luận chính trị; 4 trường hợp thiếu chứng chỉ quản lý nhà nước ngạch chuyên viên, chuyên viên chính hoặc tương đương; 36 trường hợp chưa có chứng chỉ bồi dưỡng năng lực, kỹ năng lãnh đạo cấp vụ, cấp phòng hoặc tương đương (trong đó có 3 trường hợp thiếu tại thời điểm bổ nhiệm).
Một số lao động hợp đồng làm chuyên môn, nghiệp vụ tại đơn vị SNCL nhưng được bổ nhiệm chức vụ quản lý (đến thời điểm kiểm tra không còn giữ chức vụ); 2 trường hợp tuyển dụng công chức không qua thi năm 2011, 2012 không đúng thẩm quyền (hiện 1 trường hợp đã có quyết định hủy bỏ quyết định tuyển dụng)...
Khắc phục những hạn chế nêu trên, Thanh tra Bộ Nội vụ kiến nghị Bộ trưởng Bộ TN&MT rà soát các văn bản quy định, hướng dẫn thực hiện về sử dụng và quản lý công chức, viên chức để kịp thời bổ sung, thay thế cho phù hợp quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước và phù hợp với tình hình thực tiễn của ngành.
Đối với các đơn vị chưa tự chủ hoàn toàn, Bộ trưởng Bộ TN&MT thực hiện số lượng người làm việc theo đúng chỉ tiêu được cơ quan có thẩm quyền giao; chỉ đạo các đơn vị rà soát, chấm dứt số lao động hợp đồng làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ vượt so với số lượng cơ quan có thẩm quyền giao; đến năm 2020 không sử dụng lao động hợp đồng làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ trong các đơn vị SNCL chưa được giao tự chủ hoàn toàn.
Đối với 4 trường hợp tuyển dụng trong trường hợp đặc biệt không có văn bản lấy ý kiến thống nhất của Bộ Nội vụ trước khi tuyển dụng và 1 trường hợp tuyển dụng công chức không đúng thẩm quyền, đề nghị Bộ TN&MT rà soát để xử lý theo hướng dẫn tại Thông báo Kết luận số 43 của Bộ Chính trị và Kết luận số 48 của Ban Bí thư.
Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị rà soát, cử CCVC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý (được bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, kéo dài thời gian giữ chức vụ từ ngày 28/12/2017 trở về trước) còn thiếu tiêu chuẩn về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, quản lý... đi đào tạo, bồi dưỡng; thời gian bổ sung, hoàn thiện các tiêu chuẩn còn thiếu hoàn thành trong năm 2019; xem xét không bổ nhiệm lại hoặc miễn nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý đối với các trường hợp sau thời hạn vẫn không đáp ứng yêu cầu.
Thanh tra Bộ Nội vụ cũng kiến nghị Bộ trưởng Bộ TN&MT kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến những tồn tại, hạn chế đã nêu trong Kết luận thanh tra để có hình thức xử lý phù hợp./.
Đức Duy
Theo phapluatplus
Học Thạc sĩ Kế toán Trường đại học Công nghệ Đông Á, chưa thi đã biết đỗ Nộp tiền thí sinh thi cao học không phải học bổ sung kiến thức, thi đầu vào được bày cách làm đề thi đảm bảo muốn trượt không dễ. Đổ xô đến "lò" thạc sĩ Nhiều người đổ xô đi học thạc sĩ để lấy bằng thay vì kiến thức, họ tìm đến các "lò" đào tạo thạc sĩ của những trường thi...