Đàm Thanh Sơn – Hi vọng giải Nobel của người Việt
Ngay từ khi GS Ngô Bảo Châu đạt giải thường Field, giới Vật Lý Việt Nam đã mơ ước đến giải Nobel Vật Lý của nhà khoa học người Việt, GS Đàm Thanh Sơn.
GS Đàm Thanh Sơn là người vừa được ĐH Chicago – Mỹ bổ nhiệm là giáo sư đại học.
Kết quả nghiên cứu của GS Đàm Thanh Sơn và các cộng sự, nhóm KSS từng khiến Physics Today – tờ báo Vật lý “ruột” của Mỹ đăng ba bài liền vào tháng 5/2010, ca ngợi kết quả của nhóm nghiên cứu . GS Phạm Xuân Yêm ở đại học Paris 6 lập tức nhận định kết quả ấy là “kỳ diệu”.
Một “ngôi sao Vật lý”
GS Đàm Thanh Sơn sinh năm 1969 tại Hà Nội trong một gia đình khoa học. Bố là giáo sư dược học Đàm Trung Bảo, mẹ là phó giáo sư sinh hoá Nguyễn Thị Hảo, chú ruột là giáo sư vật lý Đàm Trung Đồn.
Ông nổi tiếng thần đồng từ khi mới học lớp 2 đã có thể giải toán lớp 10 và được Sở GD-ĐT đặc cách riêng về môn Toán, cho ông học lên năm cuối cấp hai.
GS Đàm Thanh Sơn
Cấp 3, Đàm Thanh Sơn là học sinh khối phổ thông chuyên toán Trường đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1984, lần đầu dự Olympiad Toán quốc tế ở Prague, Cộng hoà Czech, Đàm Thanh Sơn đoạt ngay huy chương vàng với số điểm tối đa 42/42. Khi ấy, ông mới 15 tuổi. Bốn năm sau, GS Ngô Bảo Châu cũng đoạt huy chương vàng với số điểm 42/42 trong Olympiad Toán quốc tế ở Canberra, Australia.
Sau đó, ông được gửi sang Moskva học Vật lý tại đại học Lomonosov. Ngay từ ngày bé, Đàm Thanh Sơn đã rất đam mê những cuốn sách viết về Vật lý.
Trong cuộc trò chuyện với GS Ngô Bảo Châu về Vật lý, GS Đàm Thanh Sơn kể về những cuốn sách mở đường cho ông:
“Thời học phổ thông có một số cuốn sách có ảnh hưởng lớn đến tôi và đến việc chọn đi học Vật lý khi lên đại học. Một cuốn sách là “Vật lý vui”, dịch từ tiếng Nga, tác giả là Yakov Perelman. Cuốn thứ hai là “Câu chuyện về hằng số vật lý cơ bản” của tác giả Đặng Mộng Lân. Ngoài ra, hồi đó tôi còn đặt tạp chí Kvant tiếng Nga, trong đó có rất nhiều bài báo lôi cuốn về Vật lý, viết bởi các nhà khoa học nổi tiếng cho học sinh phổ thông”.
Sau khi sang Nga, năm 25 tuổi, ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của GS Valery Rubakov, giám đốc viện Nghiên cứu hạt nhân Moskva, một nhà bác học nổi tiếng thế giới.
Video đang HOT
Liên Xô sụp đổ, thầy Rubakov khuyên ông sang Mỹ. Ở Neww York – Mỹ, ông vào làm việc trong nhóm nghiên cứu của GS Lý Chính Đạo, người cùng chia sẻ giải thưởng Nobel năm 1957 với một nhà bác học khác, cũng người Mỹ gốc Hoa, là GS Dương Chấn Ninh, do khám phá hiện tượng không bảo toàn tính chẵn lẻ trong tương tác yếu.
Nhưng rồi, Đàm Thanh Sơn cảm thấy cần tìm cho mình một con đường riêng, mới mẻ, độc đáo. Vì vậy, ông cùng với hai nhà bác học khác P. K. Kovtun và A. O. Starinets tạo thành nhóm KSS đã đi con đường của riêng mình.
Những nghiên cứu gây tiếng vang lớn
Đầu năm 2005, nhóm KSS công bố một công trình mới về một mô hình lỗ đen lỏng (liquid black hole) trong không gian 10 chiều (10-dimensional space) trên tạp chí vật lý đỉnh cao thế giới Physical Review Letters (tập 91, trang 111601). Đàm Thanh Sơn là linh hồn của nhóm ấy, nhưng vì sắp xếp theo thứ tự chữ cái a, b, c nên tên anh mới xếp thứ hai trong nhóm.
Ngay lập tức, khám phá của nhóm KSS gây tiếng vang trong giới bác học chuyên sâu, được coi là một phát minh lý thuyết nổi bật. Các tạp chí thông tin khoa học có ảnh hưởng rộng đều đăng bài viết về công trình ấy. Tờ Physics World, New Scientist, Discover, tạp chí Scientific American…đã dành nhiều trang để thuật lại khám phá của Đàm Thanh Sơn và phỏng vấn ông.
“Mới đây, tháng 5/2010, tờ Physics Today, tờ tạp chí “ruột” của hội Vật lý Mỹ, đã in ba bài trong cùng một số tạp chí, ca ngợi công trình của nhóm KSS – đó là điều rất hiếm thấy”- nhà báo Hàm Châu viết.
Tại Việt Nam, nhiều tờ báo khoa học trong nước cũng đã kịp thời đưa tin về sự kiện này. GS.TSKH Nguyễn Văn Liễn viết về công trình của GS Đàm Thanh Sơn: “Một hệ thức tổng quát ra đời. Trong vật lý, mỗi khi xuất hiện một hệ thức mà vế phải chỉ phụ thuộc vào các hằng số cơ bản thì một điều kỳ diệu rất có thể xảy ra”.
GS Nguyễn Văn Liễn cho biết, không chỉ được tính toán trên lý thuyết mà phát minh của nhóm KSS đã được chứng minh bằng thực nghiệm. Ông viết trên Tuổi trẻ:
“Hệ thức về tỉ số giữa độ nhớt và mật độ entropy của KSS đã được kiểm chứng gần như đồng thời ở hai thí nghiệm rất khác nhau về đối tượng đo. Một thí nghiệm được tiến hành ở Brookhaven National Laboratory’s Relativistic Heavy Ion Collider (RHIC, Mỹ)… Thí nghiệm khác tiến hành ở Duke University”.
“Kỳ diệu thay, hai phép đo ở hai thái cực, nhiệt độ cực cao và cực thấp, lại đều cho giá trị cực nhỏ của tỉ số giữa độ nhớt và mật độ entropy, nhỏ hơn tỉ số này ở bất kỳ hệ vật lý nào đã biết, nhỏ đến mức dường như có thể bỏ qua, nghĩa là các trạng thái quan sát rất gần với chất lỏng hoàn hảo.
Và kỳ diệu hơn là dù rất nhỏ, các tỉ số thực nghiệm này vẫn vài lần (chỉ vài lần thôi) lớn hơn giới hạn dưới mà KSS đã tiên đoán. Điều đó cũng có nghĩa hệ thức tổng quát về giới hạn dưới của tỉ số giữa độ nhớt và mật độ entropy của KSS đã được thực nghiệm kiểm chứng!”.
Theo GS Liễn, thành công của GS Đàm Thanh Sơn và cộng sự “là kết quả của sự kết hợp tài tình các phương pháp tính toán phức tạp trong lý thuyết trường lượng tử hiện đại. Ý nghĩa của thành công này không giới hạn ở một hệ thức, cho dù là hệ thức đó rất đẹp, rất tổng quát và đã được thực nghiệm kiểm chứng, mà rất lớn và sâu rộng… Nó trang bị cho ta một công cụ hữu hiệu để nghiên cứu một lớp rộng các hệ tương tác mạnh, mà lý thuyết sắc động học lượng tử (quantum chromodynamics – QCD) gặp khó khăn liên quan với các gần đúng nhiễu loạn, qua đó làm cho các ý tưởng của lý thuyết dây trừu tượng dường như không thể trở nên thật sự có thể kiểm chứng bằng thực nghiệm”.
Vì vậy, giới khoa học Vật lý Việt Nam đang hi vọng một giải thường Nobel về Vật Lý sẽ được trao cho nhà khoa học người Việt nổi tiếng thế giới – GS Đàm Thanh Sơn.
Nhà khoa học nghiên cứu bằng giấy nháp và thùng rác
Gs Đàm Thanh Sơn đang “lao thân” vào sự nghiệp nghiên cứu một trong những vấn đề hóc búa nhất của khoa học hiện đại. Phóng viên báo An Ninh thủ đô từng phỏng vấn ông với thắc mắc, với một vấn đề như vậy, chắc hẳn cần đến những thiết bị nghiên cứu tối tân nhất.
Thế nhưng, GS Đàm Thanh Sơn lại chia sẻ: “Trái lại, là một nhà lý thuyết, các công cụ nghiên cứu của tôi hết sức đơn giản: một tập giấy nháp, một cái bút, và một thùng rác để vứt các tính toán sai hoặc vô dụng (trong đó có thể thùng rác là quan trọng nhất!). Ngoài ra, tôi còn sử dụng máy tính cá nhân, có nối vào Internet”.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa Vật lý lý thuyết có điều kiện đơn giản để dễ dàng phát triển. Theo ông: “Một nhà nghiên cứu giỏi trong ngành Vật lý lý thuyết phải biết những kiến thức cơ bản về Vật lý hiện đại, như cơ học lượng tử, thống kê. Tuy nhiên, có kiến thức thôi chưa đủ, điều quan trọng hơn là phải “đánh hơi” được ở đâu ta có thể tìm ra những quy luật mới của tự nhiên… Làm sao để biết được vấn đề gì là quan trọng, vấn đề gì không? Điểm then chốt là ở chỗ này: Vật lý là một khoa học thực nghiệm. Vấn đề quan trọng là các vấn đề có quan hệ trực tiếp đến thế giới tự nhiên… Một nhà Vật lý lý thuyết giỏi là một người biết hiện trạng của vật lý thực nghiệm”.
Trong cuộc trò chuyện với GS Ngô Bảo Châu, GS Đàm Thanh Sơn chia sẻ: “Có lẽ trong ngành khoa học nào cũng vậy, muốn thành công ít nhất phải có hai kỹ năng: tìm ra vấn đề hay, và giải quyết được vấn đề”.
Theo VietnamNet
GS Ngô Bảo Châu có bài giảng đầu tiên ở VN
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 23/6/ 2011, tại trụ sở của Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán, GS. Ngô Bảo Châu, người vừa được tặng Giải thưởng Fields cao quý nhất về Toán học trên thế giới (19/8/2010), đã có bài giảng đầu tiên để bắt đầu một chuỗi các hoạt động khoa học khai trương Viện này.
GS. Châu giảng bài trong một căn phòng khá rộng và lịch sự. Thính giả với nhiều màu tóc khác nhau ngồi chật kín, lắng nghe rất chăm chú và ghi chép rất cẩn thận.
GS. Châu nói: Sau khi kết thúc, loạt bài giảng của mình và các đồng nghiệp sẽ được tập hợp và biên tập lại thành một cuốn sách: Lecture Notes in Mathematics (tạm dịch Ghi chú bài giảng về Toán học) do NXB Springer xuất bản.
Tôi để ý theo dõi cách GS. Ngô Bảo Châu giảng bài. Anh nói hoàn toàn bằng tiếng Việt, không lai từ Tây, vừa nói vừa dùng phấn viết nhanh lên bảng bằng tiếng Anh rất chuẩn mực, theo thói quen, vì anh đã từng giảng bài ở nhiều nơi trên thế giới bằng tiếng Anh.
GS Ngô Bảo Châu
Tôi lại rất thích kiểu "2 trong 1" này, vì ở dưới các thính giả toán học trẻ Việt Nam còn được học thêm từ vựng toán học bằng tiếng Anh. Tất nhiên sau này khi có cả giảng viên và thính giả quốc tế đến Viện thì sẽ nói và viết đều bằng tiếng Anh.
Trong suốt bài giảng hơn hai giờ, GS. Châu không hề dùng Powerpoint, không hề nhìn một trang tài liệu, giáo án nào, tất cả đều từ trong đầu mà ra, vừa nói vừa viết một cách từ tốn, sinh động, hấp dẫn.
Khi vào phòng hội thảo, anh có đeo một chiếc túi da nhỏ, nhưng chắc trong đó không có "giáo án".
Trong một bức thư điện tử trước lúc về Việt Nam lần này, anh viết một cách rất khiêm tốn: "Tôi đang dạy một chuyên đề về các dạng tự đẳng cấu ở ĐH Chicago nên đang còn nhớ nhiều chi tiết, có thể kể lại, sợ sang năm lại quên mất. Ngoài ra, vì tôi cũng hiểu mỗi thứ một chút, nên sẽ chịu trách nhiệm tổ chức, giữ nhịp cho seminar".
Người giảng bài còn trẻ trung, không hề có dấu hiệu mệt mỏi. Mặc dù trong phòng lớn có micro, nhưng anh không dùng và nói đủ to để mọi người vẫn nghe rõ. Tất cả người nghe đều bị cuốn hút, cho đến khi kết thúc bài giảng, không một ai ra về trước.
Từ năm 1967 đến nay, đã có một số nhà toán học hàng đầu thế giới sau khi nhận Giải thưởng Fields đã từng sang thăm và giảng bài tại Việt Nam, như GS. A. Grothendieck (Pháp), GS. L. Schwartz (Pháp), GS. A. Hironaka (Nhật Bản).
Chỉ trong vòng một khoảng thời gian ngắn ngủi như vậy, GS. Châu đã "kể" cho người nghe một câu chuyện toán học dài xuyên qua hơn hai chục thế kỷ từ thời các phương trình nghiệm nguyên Diophantine cho đến những thành tựu toán học kiệt xuất của nhân loại trong thế kỷ XX, XXI, trong đó có chứng minh của anh về Bổ đề cơ bản Langlands.
Anh đã "vẽ" ra một bức tranh toàn cảnh "nối những bến bờ xa lạ" trong toán học và vật lý lại với nhau, như phương trình Diophantine, biểu diễn Galois, biểu diễn các nhóm Lie, dạng Modular và dạng tự đẳng, hình học, tô pô, vật lý, ...
Mặc dù lĩnh vực toán học chuyên ngành của tôi hơi xa những vấn đề mà GS. Châu đề cập đến trong bài giảng hôm đó, nhưng qua cách diễn đạt "dân dã" của anh, tôi cũng hiểu được phần nào "câu chuyện dài vừa cổ tích vừa hiện đại" này.
Trước đây tôi chưa bao giờ dám mơ sẽ có một ngày mà người được mời về giảng bài tại Việt Nam, sau khi nhận Giải thưởng Fields, lại chính là một người Việt Nam, giảng bài bằng tiếng Việt!
Thật là có ý nghĩa khi nhớ lại: Năm 1974, GS. Tạ Quang Bửu đã mời một số nhà toán học giỏi người Pháp và người Việt Nam ở Pháp, như GS. B. Malgrange, GS. F. Phạm, GS. Lê Dũng Tráng và GS. A. Chenciner sang Việt Nam để tổ chức một chuỗi bài giảng về Lý thuyết các kỳ dị, cũng tại ĐH Bách Khoa Hà Nội.
Khi đó lý thuyết này còn rất mới mẻ trên thế giới nhưng đã hứa hẹn nhiều ứng dụng quan trọng. Nhờ vậy mà đến nay Việt Nam đã có hẳn một nhóm nghiên cứu rất mạnh trong lĩnh vực này.
Khác với năm 1974, đợt này, ta đã có hẳn một Viện để tổ chức các bài giảng một cách bài bản, đó là Viện NCCCT, và giảng viên là GS. NB Châu và các GS, các nhà toán học xuất sắc trong nước và ngoài nước, 100% là người Việt Nam. Chỉ qua ví dụ so sánh đơn giản này, chúng ta đã có thể thấy một bước tiến đáng trân trọng của nền Toán học nước ta.
Tôi đã cùng các thính giả Việt Nam khác nghe từ đầu đến cuối hơn hai giờ bài giảng đầu tiên của GS. Ngô Bảo Châu với nhan đề "Các dạng tự đẳng cấu" (tạm dịch từ "Automorphic Forms").
Theo VNN
GS Ngô Bảo Châu được phong danh hiệu Giáo sư xuất sắc tại Mỹ Theo bản tin của ĐH Chicago, Mỹ, giáo sư toán học Ngô Bảo Châu vừa được phong danh hiệu Giáo sư xuất sắc cùng với 2 giáo sư khác của trường là Gregory Voth (lĩnh vực Hóa học) và Paul Wiegmann (lĩnh vực Vật lý). Được biết, tại các trường đại học ở Mỹ, danh hiệu Giáo sư xuất sắc chỉ được trao...