Đắk Lắk: Nhọc nhằn gùi chữ trên đèo Đắk Nuê
Lọt thỏm như một ốc đảo dưới chân đèo Đắk Nuê hiểm trở, xung quanh núi rừng trập trùng bát ngát, một lớp học tranh tre nứa lá được dựng lên tại buôn Đắk Sar (xã Đắk Nuê, huyện Lắk, Đắk Lắk) để con em trong bản học cái chữ với biết bao nhọc nhằn, gian khó.
Lớp học “đặc biệt” tại buôn Đắk Sar
Cách trung tâm hành chính xã Đắk Nuê hơn 30km về phía Tây Nam, ngoằn ngoèo vượt đèo Đắk Nuê khoảng 12km gập ghềnh, tiếp tục trượt dài khúc khuỷu từ chân đèo vào đến buôn hơn 10km nữa sẽ thấy một lớp học khá “đặc biệt” tại buôn Đắk Sar. Lớp học này thuộc điểm trường Tiểu học Lý Tự Trọng (huyện Lắk), được người đồng bào H’Mông góp công, góp sức dựng lên 2 phòng học tranh tre nứa lá tuyềnh toàng nằm lọt thỏm như một ốc đảo dưới chân đèo Đắk Nuê cho con em trong bản học cái chữ. Diện tích toàn bộ lớp học rộng chưa đầy 30m2 thiết kế theo kiểu nhà cấp 4, ở giữa có một tấm phiên nứa mục nát ngăn tách thành 2 phòng, trần nhà được dựng đứng bằng những cột đòn tay gỗ dầu cao khoảng 4m, bên ngoài lợp tạm bằng tranh. Trang thiết bị, cơ sở vật chất toàn bộ điểm trường độ khoảng chục cái bàn gỗ khập khiễng, 2 cái bảng thủng lỗ chỗ đến tuổi “về hưu”, nền nhà thì lụp xụp.
Lớp học tuềnh toàng không ô cửa khiến thầy cô giáo, học trò “hứng trọn” toàn bộ bụi đất mùn bên ngoài thổi vào.
Cái bảng thủng lỗ chỗ.
Ở lớp học chân đèo Đắk Nuê này có cả thảy 76 học sinh (HS) lớp 1 là con em người đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó 74 HS là người đồng bào H’Mông, duy chỉ có 2 em là người dân tộc Tày. Điểm học ở buôn Đắk Sar chia làm 2 ca với 3 lớp học gồm: lớp 1 M1 có 25 HS, lớp 1 M2 có 26 HS học buổi sáng lớp 1 M3 là 25 HS học buổi chiều.
Đáng nói, lớp học buôn Đắk Sar xây dựng cách nay chỉ hơn nửa năm (9/2011), nhưng khiến người ta “khiếp vía” bởi đến nay điểm trường này chính thức “tiễn biệt” 6 thầy cô giáo một đi không trở lại. Mùa mưa, quảng đường từ quốc lộ 27 vào đến buôn hơn 10km đường đồi khó có thể đi lại bởi đường sá hoàn toàn ngập trong bùn đất. Mùa nắng, bụi đất mùn phủ đỏ tía một màu dày đặc trên bảng viết, đọng đầy trên mỗi cuốn vở HS bởi lớp học hầu như không ô cửa, lồng lộng gió bụi lùa phăng tạt vào người. Chưa hết, những ngày mưa tầm tã, phòng học tối om như mực vì không điện, trần nhà nước mưa chảy dột khiến thầy trò ướt át chạy trốn như chạy lũ. Mùa mưa bão, cô trò ngồi học nhưng nơm nớp lo sợ rui kèo trần nhà có thể đổ sập hoặc tốc mái bất cứ lúc nào nếu chẳng may gặp cơn gió mạnh. Ngoài ra, để đến buôn Đắk Sar dạy học, các thầy cô giáo chật vật băng rừng, vượt đèo hơn 30km đường đồi ngoằn ngoèo hiểm trở. Điểm trường quá khó khăn bởi không điện, không nước, đường sá lầy lội khiến 6 thầy cô giáo chính thức nói lời “chia tay” điểm trường bỏ lại hơn 70 HS.
Mỗi lần mưa lớn, trần nhà chảy giột khiến thầy trò ướt át chạy trốn như chạy lũ.
Video đang HOT
“Cần lắm một phòng học kiên cố…”
Ở điểm trường buôn Đắk Sar hiện còn “sót” lại 3 thầy cô giáo ngày đêm miệt mài cắm bản gieo chữ. Đó là cô giáo Triệu Thị Hằng (23 tuổi, quê huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) cắm bản lâu nhất hơn 1 năm cô giáo Ngô Thị Thương (23 tuổi, quê huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh) công tác tại điểm trường khoảng 4 tháng thầy giáo Hứa Ngọc Khôn (40 tuổi, quê tỉnh Bắc Kạn) tham gia giảng dạy ở bản hơn 3 tháng. Trong đó, cô Hằng và cô Thương có cuộc sống khá khốn khó. Sau những giờ học ở trường, cuộc sống các cô còn bao thứ lo toan bộn bề.
Buôn Đắk Sar (xã Đắk Nuê, huyện Lắk) có khoảng 360 hộ là người đồng bào dân tộc thiểu số H’Mông di cư vào sinh sống khoảng 4 năm trở lại đây ngoài ra còn có một số ít là người Tày, M’Nông, Ê-đê cư trú. Cuộc sống người đồng bào ở đây khá vất vả vì đây là nơi heo hút, đi lại khó khăn. Các em học sinh ở buôn này không có giấy khai sinh nên rất khó khăn trong quản lý. Trong 7 điểm trường của Trường tiểu học Lý Tự Trọng thì điểm trường buôn Đắk Sar khó khăn nhất, cách xa điểm chính 31km đường bộ, tiếp theo là điểm trường Đlei cách điểm trường chính Lý Tự Trọng 21km và điểm trường Pai Pi là 14km. Theo quy định, 2 điểm trường Đlei và Pai Pi được hưởng chế độ vùng 3 của Nhà nước (tương đương 150% lương) nhưng giáo viên vào đây công tác vẫn chưa có chế độ này. Ban giám hiệuH trường Tiểu học Lý Tự Trọng vào 3 điểm trường này kiểm tra cơ sở định kỳ nhưng không có tiền hỗ trợ, trong khi theo quy định kiểm tra cơ sở giáo dục trên 10km được hưởng công tác phí.
Buổi sáng, các cô lật đật dậy từ 5 giờ tất tả đi bộ 1km ra khe suối lấy nước cho kịp giờ trước khi đến lớp bất chấp nước khe suối đục ngầu, phèn lớ. Ngày thường thì không sao, gặp phải trời nắng hạn các cô có thể phải đối mặt với nhiều ngày không có giọt nước để dùng. Ở buôn Đắk Sar, các cô luôn “làm bạn” với mì tôm, chuối rừng, rau lá, lâu lâu mới có con cá, chút thịt tươi sống dưới xuôi đem lên đổi vị. Tối đến không điện, các cô lại lủi thủi soạn bài bên ngọn đèn dầu leo lét trong căn lều tranh tuyềnh toàng gió lộng. Khó khăn là vậy nhưng tình yêu nghề, yêu con trẻ các thầy cô vẫn miệt mài cắm bản đem con chữ đến với HS vùng khó.
Chia sẻ với chúng tôi, cô Hằng tâm sự: “Sau khi tốt nghiệp Trường CĐ Sư phạm Hà Nam năm 2010, em xin vào đây công tác. Ban đầu miền đất mới nhiều thứ lạ lẫm, bỡ ngỡ kèm với đó cuộc sống khó khăn bộn bề nhiều khi chỉ muốn bỏ dạy. Cơ sở vật chất dạy học ở đây thiếu thốn trầm trọng, nhiều bài học muốn minh họa trực quan cho học sinh hiểu bài cũng rất khó, chỉ dừng lại ở lý thuyết chung chung HS không hiểu bài, kèm với đó HS là người đồng bào dân tộc thiểu số chưa hiểu tiếng Kinh nên khó khăn trong truyền đạt”.
Cô Ngô Thị Thương thì chia sẻ: “Mặc dù dạy học ở đây khá thiếu thốn nhưng bù lại HS lại hiếu học, chăm ngoan, các em tiếp thu khá nhanh kiến thức trên lớp. Có em dù bị gãy chân, nhà xa hơn 5 km nhưng một hai đòi bố đưa đến trường bằng được như trường hợp em Thào A Đềnh khiến thầy cô chúng tôi rất cảm phục. Phụ huynh ở đây cũng quý mến thầy cô giáo, chia sẻ, giúp đỡ thầy cô chúng tôi rất nhiều. Nghĩ lại bỏ các em mà về xuôi thì tội nghiệp, chỉ muốn các em biết đọc, biết viết là mừng”. Cô Thương cho biết thêm, hiện điểm trường Đắk Sar chưa có học sinh nào nghĩ học, trời mưa lầy lội nhà xa 4, 5 km nhưng các em vẫn đến trường đầy đủ.
Con đường đất dẫn vào điểm trường Đắk Sar mùa mưa thì sụp lún, mùa nắng thì khói bụi nghi ngút bay lên.
“Những giáo viên vùng khó như chúng tôi khổ đến đâu cũng chịu được, nhưng mùa mưa đến chỉ thương HS ướt lạnh ngồi học tội nghiệp. Cô trò chúng tôi chỉ mong có một phòng học kiên cố ở buôn Đắk Sar này để việc học tập của các em thuận lợi, không còn cảnh mưa dột cô trò ướt át co ro chạy trốn…”. cô giáo Hằng mong mỏi. Được biết, cô giáo Triệu Thị Hằng là người tham gia giảng dạy ở buôn Đắk Sar lâu nhất và cũng là người duy nhất dạy hợp đồng, cô Hằng mong muốn các cấp lãnh đạo xem xét cho cô được vào biên chế để cô toàn tâm toàn ý cắm bản gieo chữ.
Vượt qua khó khăn, cô trò vẫn miệt mài bám lớp, bám trường gùi chữ.
Trao đổi với PV Dân trí, thầy La Trọng Chương – hiệu trưởng Trường tiểu học Lý Tự Trọng cho biết: “Điểm học buôn Đắk Sar dưới chân đèo Đắk Nuê được người đồng bào dân tộc thiểu số H’Mông di cư từ các tỉnh phía Bắc vào đây lập nghiệp, dựng lên cho con em học chữ. Lý do quảng đường từ buôn Đắk Sar ra đến điểm học Đlei ở quốc lộ 27 xa đến 12km con em họ quá nhỏ không thể đi lại. Ngay sau khi có lớp học tại buôn, Ban giám hiệu nhà trường đã điều thầy cô giáo vào cắm bản dạy chữ cho 76 học sinh với mong muốn con em người đồng bào ở đây không phải thất học. Tuy nhiên, đến nay điểm trường buôn Đắk Sar có 6 thầy cô xin thôi dạy”.
Học sinh ở điểm trường Đắk Sar sau giờ tan trường.
Thầy Chương cho biết thêm, để có tiền chi trả cho giáo viên giảng dạy ở buôn Đắk Sar, nhà trường phải “nhường cơm sẻ áo” đóng góp mỗi tháng mỗi thầy cô giáo 10 – 15.000 đồng/người hỗ trợ thầy cô trong bản học sinh ở điểm trường này vô cùng khó khăn, từ cuốn sách, cuốn vở, cái bảng… nhà trường đều dành dụm gửi vào để các cháu có điều kiện học tập chứ nhà quá nghèo. Thầy Chương mong muốn: “Mong sao các cơ quan chức năng quan tâm giúp đỡ có chế độ đãi ngộ với giáo viên ở đây chứ điểm trường quá khó khăn, chúng tôi cần lắm một phòng học kiên cố, kịp thời trước khi mùa mưa lũ năm nay ập đến bởi điểm trường Đắk Sar đã xuống cấp nghiêm trọng…”.
Viết Hảo
Theo dân trí
Nhiều trường THPT tư đối mặt với phá sản
Ngày càng thêm nhiều trường THPT ngoài công lập không tuyển đủ học sinh, đối mặt phá sản.
21 tỉ đồng xây trường, không tuyển sinh được hai trường THPT Ngô Sĩ Liên và THPT Đặng Tiến Đông cùng chung một chủ đầu tư và đều nằm trên địa bàn huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
Cả hai trường xây được trên 60 phòng học kiên cố và trên 10 phòng học bán kiên cố. Các phòng có đầy đủ ánh sáng, quạt, có 32 hệ thống camera để quản lý giờ học. Bảy phòng học chất lượng cao có máy chiếu, điều hòa, trang thiết bị dạy học.
Cả hai trường đều có đủ phòng học bộ môn, phòng chức năng, thư viện, y tế, phòng truyền thống, sân chơi, bãi tập. Tổng số tiền được đầu tư để xây dựng cơ bản của hai trường lên tới 21,5 tỉ đồng. Tuy nhiên, tương lai của trường hiện rất bấp bênh khi mà nguồn học sinh để tuyển ngày càng èo uột.
"Khi còn thuộc tỉnh Hà Tây, trường Ngô Sĩ Liên có 29 lớp. Nay về Hà Nội, còn 17 lớp. Trường Đặng Tiến Đông trước 24 lớp nay chỉ còn năm lớp cả ba khối", thầy Nguyễn Huy Chuyển, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Hiệu trưởng trường THPT Ngô Sĩ Liên, nói.
(Ảnh minh họa)
Trường THPT An Dương Vương có một khuôn viên hơn 6.000 m2 ở thị trấn Đông Anh với 30 phòng kiên cố, trong đó 24 phòng học và sáu phòng chức năng (thư viện, thí nghiệm, phòng máy). Các phòng học của trường được lắp camera, loa, màn hình tinh thể lỏng, tủ đựng đồ dùng cá nhân của học sinh (HS).
Trước đây trường có gần 1.300 học sinh. Kể từ khi Hà Nội mở rộng, mỗi năm trường giảm vài trăm học sinh. Năm học này, chỉ còn 578 học sinh.
Cách đây ba năm, thành phố có 76 trường THPT ngoài công lập với gần 52.500 HS. Năm học này, số trường là 92 nhưng số học sinh chỉ còn chưa đầy 38.000 em.
Theo chủ trương khuyến khích xã hội hoá giáo dục của thành phố, năm 2010 cấp THPT có 40% HS được học trong các trường ngoài công lập. Thực tế, Sở GD&ĐT đều ưu ái cho các trường công lập khi giao chỉ tiêu tuyển sinh. Kết quả, chỉ có 21,3% HS THPT đang học tại các trường ngoài công lập vào thời điểm năm 2012.
Tại hội thảo do Hội Tâm lý Giáo dục Hà Nội và các trường THPT ngoài công lập của Hà Nội tổ chức cuối tuần qua, ông Đoàn Hoài Vĩnh cho biết lãnh đạo Sở GD&ĐT sẽ bàn bạc, nghiên cứu đổi mới tuyển sinh, tìm cách tạo điều kiện cho các trường ngoài công lập.
Tại huyện Đông Anh, năm học 2008 - 2009, chỉ tiêu giao cho các trường THPT công lập chiếm 53,3% số HS học xong lớp 9 của huyện năm học 2011 - 2012, tỉ lệ này tăng lên 66,29%. "Năm vừa rồi, cả chín đơn vị tuyển sinh ngoài công lập chia nhau để tuyển trong số khoảng 1.000 HS", một đại biểu cho biết.
Một bất công khác là chi phí. Hiện nay thành phố phân bổ định mức đầu tư cho các trường THPT công lập theo đầu học sinh với mức 4 triệu đồng/học sinh/năm. Các trường THPT ngoài công lập không được hưởng chính sách này nên mọi chi phí học tập học sinh phải gánh chịu.
Trao đổi với Tiền Phong bên lề hội thảo ngày 25/2, thầy Văn Như Cương, Hiệu trưởng Trường THPT dân lập Lương Thế Vinh (Hà Nội), một trường đắt hàng tuyển sinh bậc nhất Hà Nội, cũng đồng tình: "HS ngoài công lập cần được nhà nước hỗ trợ chi phí học tập bình đẳng với HS công lập, nhiều nước cũng đã làm như thế. Các trường THPT ngoài công lập ở ngoại thành vẫn thu học phí cao so với nhiều gia đình nông dân. Trong khi đó những trường này đóng vai trò quan trọng đối với việc nâng cao dân trí trên địa bàn".
Theo Quý Hiên
Tiền Phong
"Chỉ mong có một ly sữa mỗi tuần cho các cháu" Chỉ mong mỗi tuần các cháu được một ly sữa, uống một viên thuốc bổ để khỏi bị suy dinh dưỡng mà vui chơi, học tập là niềm vui lớn của các cô giáo dạy trẻ mầm non nơi đây lắm rồi". Đó là lời mong mỏi của cô Ngô Thị Thanh Nga - phó hiệu trưởng Trường mẫu giáo Sơn Ca (xã...