Đại suy thoái (2008 -2009) – cơn địa chấn kinh tế lớn nhất đầu thế kỷ 21
10.000 tỷ USD bị cuốn trôi, 30 triệu người mất việc, 50 triệu người quay lại chuẩn dưới nghèo là cái giá phải trả cho cuộc khủng hoảng 2008.
15/9/2008, Lisa Roitman, Renee Spero và Jayson Berkshire – những “banker” hàng đầu của nước Mỹ đã chào ngày mới bằng một sự kiện khác biệt: Công ty của họ – Lehman Brothers tuyên bố phá sản.
Những nhân viên Lehman Brothers rời ngân hàng vào ngày thông báo phá sản.
Lisa Roitaman rời HSBC năm 2007 để đầu quân cho Lehman Brothers làm giám đốc một chi nhánh. Jayson Berkshire có 10 năm làm trợ lý giám đốc điều hành và dành hơn 50 giờ mỗi tuần cho công việc. Renee Spero được Lehman Brothers nhận vào ngân hàng từ năm 2004 và bỏ toàn bộ 200.000 USD tiền hoa hồng nhận được để mua cổ phiếu ngân hàng.
Tuy nhiên cả ba đã trắng tay. Và họ chỉ là ba trong số hơn 20.000 nhân viên Lehman Brothers trên toàn thế giới mất việc khi ngân hàng này phá sản sau khi Chính phủ Mỹ từ chối việc bơm vốn cứu trợ.
Đây không phải tín hiệu đầu tiên báo trước cuộc khủng hoảng kinh tế được đánh giá là “tồi tệ nhất nhất trong lịch sử”, nhưng là cột mốc cho sự sụp đổ của ngành công nghiệp tài chính của Mỹ – nguyên nhân chính đẩy kinh tế thế giới vào một giai đoạn đen tối.
Lehman Brothers – ngân hàng đầu tư thành lập năm 1844 – là một trong năm định chế tài chính cho vay lớn nhất nước Mỹ khi đó.
Tuy nhiên, Lehman Brothers cũng chỉ là một trong những quân cờ Domino bị sụp đổ trong một phản ứng dây chuyền đầu năm 2008.
Trước khi ngân hàng 160 năm tuổi này tuyên bố phá sản, ngày 16/3/2008, Bear Stearns – một trong năm ngân hàng đầu tư lớn nhất phố Wall – cũng phải cầu cứu và được JPMorgan Chase mua lại với khoản hỗ trợ 30 tỷ USD từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).
Chính phủ Mỹ thông qua khoản cứu trợ 200 tỷ USD cùng thời gian đó để cứu Freddie Mac và Fannie Mae – hai nhà cho vay thế chấp lớn nhất nước Mỹ, không bị phá sản và cứu AIG – một trong ba công ty bảo hiểm lớn nhất bằng việc tung ra 85 tỷ USD để mua 80% cổ phần.
Những gói cứu trợ hàng trăm tỷ USD được đưa ra sau đó như một nỗ lực để giảm bớt ảnh hưởng của đợt khủng hoảng. Tất cả những diễn biến này xuất phát từ một công cụ tài chính phái sinh với tên gọi CDO (Collateralized Debt Obligation) – Nợ thế chấp, được phát triển. Từ công cụ này, “bong bóng” bất động sản và các khoản vay dưới chuẩn đã bùng nổ, không thể kiểm soát chỉ trong bốn năm, từ 2002 – 2006.
‘Bong bóng’
Trước đây, khi một người cần khoản tiền để mua nhà, quan hệ tài chính sẽ được hình thành giữa người đi vay và người cho vay – chỉ duy nhất hai chủ thể này. Tuy nhiên với sự xuất hiện của CDO, sẽ có thêm những cái tên khác xuất hiện.
Những khoản nợ vay thế chấp sẽ được bên cho vay bán lại cho các ngân hàng đầu tư. Các ngân hàng này đưa những khoản nợ gộp lại thành các CDO và bán ra thị trường. Người mua CDO sẽ là người cuối cùng hưởng khoản thanh toán từ người vay thế chấp ban đầu. Các công ty bảo hiểm tham gia với vai trò bảo đảm rủi ro, sau khi các CDO này được các tổ chức đánh giá tín nhiệm xếp hạng.
Nói cách khác, tất cả thành phần trong ngành công nghiệp tài chính đều có thể tham gia vào “chuỗi thức ăn chứng khoán” được định giá hàng nghìn tỷ USD này. Tuy nhiên, đó cũng là lúc những lỗ hổng xuất hiện.
Khi các ngân hàng cho vay thế chấp bất động sản không còn quan tâm tới khả năng chi trả của khách hàng, những khoản vay trở nên rủi ro với tiêu chuẩn dễ dãi hơn. Các ngân hàng đầu tư, thay vì dành lợi nhuận để dự phòng rủi ro, lại chi ra hàng tỷ USD để thưởng cho ban lãnh đạo, những thành viên tham gia vì khoản lợi nhuận ngắn hạn đột biến. Các công ty xếp hạng tín nhiệm cho những CDO đánh đồng các khoản vay thế chấp khác nhau, đa phần xếp ở mức AAA – ngang mức độ tín nhiệm của trái phiếu chính phủ Mỹ. Còn các công ty bảo hiểm tin tưởng những công cụ tài chính mới “không thể bị vỡ nợ”.
Khi không còn ai quan tâm đến chất lượng khoản vay, dư nợ cho vay thế chấp bất động sản của Mỹ đã tăng với tốc độ chóng mặt. Từ 160 tỷ USD của năm 2001, dư nợ thế chấp tăng lên 540 tỷ vào năm 2004 và bùng nổ lên 1.300 tỷ USD vào năm 2007. Ước tính đến cuối quý III/2008, hơn một nửa giá trị thị trường nhà đất Mỹ là tiền đi vay, với 1/3 các khoản này là nợ khó đòi.
“Họ biết điều gì đang xảy ra”, Robert Gnaizda, đồng sáng lập và là giám đốc điều hành Viện Greenlining (California) nói.
Tháng 12/2010, chiếc biển Lehman Brothers được mua với giá 42.050 bảng trong một phiên đấu giá các tài sản tại Christie’s – đây cũng là những gì còn lại của ngân hàng thành lập năm 1844 sau cuộc khủng hoảng năm 2008.
Năm 2005, Raghuram Rajan, khi đó là Kinh tế trưởng của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã có một bài luận tại Hội nghị thường niên ngành ngân hàng của Mỹ với tựa đề “Có phải sự phát triển của ngành tài chính khiến thế giới rủi ro hơn”. Bài luận phân tích về những lỗ hổng của CDO và cách thức hoạt động của ngành công nghiệp tài chính. Và câu trả lời cho câu hỏi đầu tiên là Có.
Một năm sau đó, những bánh răng đầu tiên trong cỗ máy bắt đầu trục trặc. Tỷ lệ cho vay trên giá trị căn nhà lên tới 99% khiến người mua nhà sẵn sàng bỏ lại tài sản khi không còn khả năng thanh toán. Số lượng bất động sản nhà ở bị thu hồi để siết nợ tăng lên con số hàng triệu, thị trường đóng băng, giá trị những căn nhà bốc hơi từng ngày.
Khi những người cuối cùng của “chuỗi thức ăn chứng khoán” không còn nhận được lợi tức từ những CDO, sự sụp đổ dây chuyền đã diễn ra. Các công ty bảo hiểm không đủ khả năng chi trả những CDO bị mất khả năng thanh toán, ngân hàng đầu tư bị nghi đã bán những sản phẩm tài chính “ở mức rác” cho khách hàng mà không cảnh báo trước những rủi ro, những công ty xếp hạng tín nhiệm được cho đã thông đồng để đưa xếp hạng tín nhiệm quá cao so với thực tế.
Công bố lợi nhuận và doanh thu kỷ lục vào cuối quý I/2017 nhưng đến quý I/2018, Lehman Brothers lỗ tổng cộng 2,8 tỷ USD. Ngay trước thời điểm phá sản, khoản lỗ tăng lên gần 4 tỷ USD. Sau khi thương lượng bất thành với Barclays và Bank of America về phương án giải cứu, ngân hàng này chỉ còn 1 tỷ USD tiền mặt và 15/9/2008 tuyên bố phá sản. Cổ phiếu Lehman Brothers gần như không còn giá trị.
Sự sụp đổ của ngân hàng đầu tư lâu đời của Mỹ mở đầu cho đợt bán tháo lớn nhất trong lịch sử. Tại sàn giao dịch chứng khoán London, bắt đầu phiên giao dịch ngày 15/9, chỉ số FTSE giảm 56,5 điểm cơ bản. Ngày 16/9, thị trường chứng khoán tại Hong Kong mở cửa với mức sụt giảm 5,4%, thị trường Thượng Hải cũng giảm 4,5%.
Sự đình trệ của dòng chảy vốn, “bong bóng” bất động sản vỡ khiến kinh tế thế giới bị tổn thương nghiêm trọng. Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ lên mức 10%, cao nhất kể từ Đại suy thoái. Ước tính có khoảng 30 triệu người đã mất việc do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng, 50 triệu người quay lại ngưỡng dưới nghèo với ước tính thiệt hại khoảng 10.000 tỷ USD.
“Nếu bạn nhìn vào cái giá phải trả thì đây thực sự là cuộc khủng hoảng cực kỳ, cực kỳ đắt tiền”, Nouriel Roubini, Chuyên gia kinh tế, thành viên Hội đồng cố vấn kinh tế (1998 – 2000).
Nguy cơ hiện hữu cho một cuộc khủng hoảng mới
Sự sụp đổ của một trong những ngân hàng đầu tư lớn nhất nước Mỹ đã dạy cho nhà đầu tư và người tiêu dùng bài học về kiểm soát vay nợ, cũng như những rủi ro từ việc nới lỏng kiểm soát ngành công nghiệp tài chính. Nhưng bài học của Lehman Brothers còn đó không có nghĩa là khả năng lặp lại sai lầm không thể xảy ra.
Theo khảo sát của Bloomberg, thế giới vẫn đang tiếp tục vay nợ với khối lượng ngày càng tăng.
Tổng nợ toàn cầu ở ngưỡng 84.000 tỷ USD những năm đầu thế kỷ 21, đã tăng lên 173.000 tỷ USD vào thời điểm khủng hoảng tài chính năm 2008 bùng nổ, và tiếp tục lên 250.000 tỷ USD đến thời điểm hiện tại. Trong đó khối lượng nợ xấu đã chạm gần mốc 3.000 tỷ USD.
Để thoát khỏi thảm cảnh của cuộc khủng hoảng năm 2008, các ngân hàng trung ương phải tung ra loạt chính sách kích thích tiền tệ khổng lồ và phi truyền thống, trong khi chính phủ các nước hoặc nới lỏng chính sách tài khóa hoặc thực hiện chủ trương “thắt lưng buộc bụng”.
Hạ lãi suất xuống mức 0%, đưa ra thị trường những gói nới lỏng định lượng (QE) với quy mô hàng trăm tỷ USD và hệ quả là bảng cân đối tài chính của các ngân hàng trung ương đã phình to lên mức chưa từng thấy. Số lượng trái phiếu lãi suất cao được phát hành bởi các doanh nghiệp đến từ châu Âu và Mỹ cũng tăng gấp nhiều lần so với thời điểm Lehman Brothers phá sản.
Điểm tích cực của điều này, tất nhiên là “nhiệm vụ giải cứu” thế giới gần như đã hoàn thành. Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống, tăng trưởng GDP trở lại, dòng vốn luân chuyển và thị trường chứng khoán toàn cầu thậm chí đã vượt qua cả mức trước khủng hoảng. “Tuy nhiên, nếu đào sâu hơn, con đường mà thế giới đang đi lại được lát bằng ‘gạch’ nợ nần, và đó lại là đường một chiều”, Bloomberg nhận xét.
Ngoài vấn đề mang tính vĩ mô, một vấn đề khác là việc kiểm soát hoạt động của ngành công nghiệp tài chính vẫn là bài toán chưa có lời giải thỏa đáng.
Bản thân những ngân hàng đầu tư, những định chế tài chính trong “chuỗi thức ăn chứng khoán” từ trước khủng hoảng đã nhận thấy những rủi ro ngày càng tăng. Và cũng chính những ngân hàng đầu tư, những người bán CDO cho khách hàng lại đi đặt cược vào khả năng mất thanh khoản từ chính những CDO này. Chính họ đã thiết kế ra những công cụ tài chính mà khi khách hàng của họ mất tiền, họ nhận được số tiền tương đương.
Trong số tiền 85 tỷ USD mà AIG – một trong ba công ty bảo hiểm lớn nhất của Mỹ – nhận được để chi trả cho các khoản bảo hiểm vào năm 2008, một phần lớn số đó rơi vào túi của những ngân hàng đầu tư. Những ngân hàng này đã đánh cược vào khả năng AIG vỡ nợ, dù công ty này bảo hiểm cho chính những CDO mà họ bán ra thị trường.
Năm 2010, bộ phim tài liệu Inside Job do Charles Ferguson đạo diễn được công chiếu. Một trong những câu hỏi được nhà nghiên cứu này đưa ra ở phần cuối là ngành công nghiệp tài chính Mỹ đã có sự thay đổi như thế nào sau bài học từ cuộc khủng hoảng năm 2008. Câu trả lời là không có sự thay đổi đáng kể.
Diễn giải những thay đổi của ngành tài chính từ những năm 80 của thế kỷ trước, Ferguson cho rằng nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng năm 2008 là do những chính sách kiểm soát hoạt động của ngành này bị loại bỏ, sự lỏng lẻo trong hoạt động được hẫu thuẫn bởi những “ông trùm” của Phố Wall khiến những ngân hàng chấp nhận đánh đổi rủi ro lấy lợi nhuận. Ông gọi ngành công nghiệp tài chính là “ngành công nghiệp không kiểm soát”.
“Ngân hàng kiếm được rất nhiều lợi nhuận từ những hoạt động rủi ro và điều đó dẫn đến một cuộc chiến khổng lồ chống lại sự kiểm soát”, Satyajit Das, tác giả của cuốn sách Traders, Guns and Money nhận xét.
Thế giới rõ ràng đã nhận được những bài học đắt giá từ cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008, chu kỳ 10 năm một cuộc khủng hoảng cũng khó có thể tài diễn ở hiện tại. Tuy nhiên, với yếu tố không chắc chắn kể trên, nguy cơ của một cuộc khủng hoảng tương lai vẫn hiện hữu, và chắc chắn một khi đã xảy ra, quy mô chỉ có thể lớn hơn chứ không giảm đi.
Theo vnexpress, người thành công
Mong chờ một nền giáo dục nhân văn trong thập niên mới
Thập niên 20 của thế kỷ 21, người ta trông đợi vào một nền giáo dục nhân văn, hiện đại mà ở đó giáo viên và học sinh đều cảm thấy hạnh phúc.
Năm học 2020 - 2021 là năm đầu tiên thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới với lớp 1 - KHẢ HÒA
Năm 2020 với ngành GD-ĐT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi cả nước bắt đầu thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Thập niên 20 của thế kỷ 21, người ta trông đợi vào một nền giáo dục nhân văn, hiện đại mà ở đó giáo viên và học sinh đều cảm thấy hạnh phúc.
Lớp 1 - thử thách đầu tiên với "đổi mới căn bản, toàn diện"
Năm học 2020 - 2021 là năm đầu tiên thực hiện chương trình, sách giáo khoa (SGK) mới và áp dụng duy nhất với lớp 1 nhưng mở ra rất nhiều cơ hội cũng như thách thức cho đổi mới.
Sau gần 20 năm thực hiện chương trình giáo dục phổ thông (năm 2000) với quy định duy nhất một chương trình, một bộ SGK thống nhất trên toàn quốc thì việc "thay sách" lần này có hướng đi hoàn toàn mới với một chương trình và nhiều bộ sách. Thay vì cả nước dạy học theo SGK của Bộ GD-ĐT như "pháp lệnh", thì lần đổi mới này, Bộ không tổ chức biên soạn sách, mà SGK được biên soạn theo hình thức xã hội hóa và đến thời điểm này đã có tới 5 bộ sách lớp 1 của các nhà xuất bản biên soạn mà không dùng đến kinh phí nhà nước. Nhiều bộ SGK là xu hướng tất yếu nhưng mong muốn của nhà giáo và phụ huynh có con sắp vào lớp 1 trong năm tới là việc vận hành nhiều bộ sách phải thực sự công khai minh bạch.
Đào tạo lại hơn 400.000 giáo viên
Tháng 7.2020, luật Giáo dục 2019 sẽ có hiệu lực với nhiều thay đổi liên quan đến giáo viên (GV), trong đó có quy định về nâng chuẩn đào tạo với GV mầm non, tiểu học, THCS. Trước đây, bậc mầm non chuẩn trình độ đào tạo chỉ là trung cấp, giờ được nâng lên trình độ CĐ. GV tiểu học thì nâng chuẩn từ trung cấp lên ĐH. GV cấp THCS từ CĐ lên ĐH. Như vậy, tới đây, toàn bộ hệ thống GV phổ thông sẽ có chuẩn tối thiểu là trình độ ĐH, mầm non là CĐ.
Thông tin từ Bộ GD-ĐT cho biết đội ngũ GV trên cả nước hiện nay khoảng 1,3 triệu nhưng lực lượng cần phải đào tạo lại để nâng chuẩn từ mầm non, tiểu học và THCS là khoảng 400.000 - 500.000, một lượng tương đối lớn. Dự kiến tháng 4.2020 sẽ có nghị định về thực hiện lộ trình đào tạo đáp ứng chuẩn đào tạo theo luật Giáo dục.
Lương cho giáo viên có tăng ?
Chương trình giáo dục phổ thông mới có những thay đổi liên quan trực tiếp tới công việc của GV. Ví dụ, cấp tiểu học đang dạy học 2 buổi/ngày không bắt buộc; cấp THCS có nhiều môn học tích hợp nên tới đây bắt buộc khối lượng công việc của GV sẽ tăng lên. Nhiều GV "tâm tư", khi dự các buổi hội thảo, tập huấn thấy lãnh đạo ngành GD-ĐT và các chuyên gia nói rất nhiều về việc "GV phải...", nào là phải thay đổi, phải sáng tạo, phải quan tâm từng học sinh, phải... nhưng không thấy nói đến chính sách, thu nhập dành cho nhà giáo sẽ đổi mới ra sao.
Ông Hoàng Đức Minh, Cục trưởng Cục Nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục (Bộ GD-ĐT), cho rằng với việc nâng chuẩn trình độ đào tạo theo luật Giáo dục sửa đổi thì lương GV cũng sẽ tăng đáng kể. Dự kiến như với GV tiểu học khởi đầu trước đây chuẩn trình độ là trung cấp có hệ số lương cơ bản 1,86 thì nay lên thành 2,34. Như vậy, ngay hệ số cơ bản, nếu tính so với hiện nay thì đã gấp rưỡi.
Thế nào là trường học hạnh phúc ?
Năm 2019, một trong những cụm từ được nhắc rất nhiều là "trường học hạnh phúc". Nhiều cuộc hội thảo, nhiều lễ ký kết, "ra quân" mang tính phong trào để xây dựng cái gọi là hạnh phúc trong trường học. Tuy nhiên, việc xây dựng trường học hạnh phúc rõ ràng không phải là việc một sớm một chiều; càng không phải có phong trào thì thầy trò sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn; nó là sự bền bỉ xây dựng của nhiều năm.
Cô Đỗ Thị Thu Huyền, GV Trường THPT Đống Đa, Hà Nội, cho rằng trường học hạnh phúc trước hết phải là khi GV cảm thấy hạnh phúc. Mỗi cá nhân luôn cảm thấy muốn đến trường với những hứng thú, niềm vui, có sự mong chờ. GV hạnh phúc sẽ làm cho học sinh hạnh phúc.
PGS Chu Cẩm Thơ, Viện Khoa học giáo dục VN, nêu quan điểm: Trường học hạnh phúc sẽ thành sự thật khi mỗi người chủ động thay đổi bản thân mình, tự tạo ra và duy trì hạnh phúc của mình bằng cách làm cho mình hiểu biết hơn, làm việc hiệu quả hơn, thấu hiểu những người xung quanh và thấy mình có ích hơn.
Khẩn thiết đề nghị bỏ "dán nhãn" học trò
Suốt hàng thập niên qua, ẩn sau những câu chuyện không vui của giáo dục luôn có vấn đề về giáo dục đạo đức, lối sống, đánh giá, thưởng phạt học sinh chưa đúng cách. Quy định của Bộ GD-ĐT về kỷ luật, khen thưởng học sinh ban hành từ thập niên 80 của thế kỷ trước (năm 1988), đã rất lỗi thời và gây khó khăn cho các nhà trường trong quá trình thực hiện, mà sang đến thập niên 20 của thế kỷ 21 vẫn được áp dụng, dù chục năm qua, bộ này nhiều lần hứa hẹn sẽ thay đổi.
Nhà giáo Nguyễn Văn Hòa, Chủ tịch Hội đồng Trường phổ thông Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hà Nội, tiếp tục tha thiết đề nghị với các cơ quan quản lý giáo dục: "Chúng ta đang chuyển từ giáo dục chỉ cung cấp kiến thức sang giáo dục để phát triển con người, thì những quy chế, quy định về giáo dục, dạy học đã tồn tại từ 50 - 60 năm nay rồi cần phải thay đổi. Bộ GD-ĐT cần xem xét và cải tổ lại việc này. Ít nhất trong vài ba năm nữa chúng ta làm thế nào để thay đổi mang lại màu sắc mới, không khí mới trong việc nhìn nhận học sinh của chúng ta trong thời đại này không phải dưới lăng kính điểm số, không phải theo con mắt đánh giá dán tem dán nhãn, phân loại con người như chúng ta đã làm trong nhiều năm nay".
Mong hết "bệnh thành tích"
Nhà giáo Nguyễn Xuân Khang, Hiệu trưởng Trường Marie Curie Hà Nội, nêu thực tế: "Hàng chục năm qua, thi đua, khen thưởng đã sinh ra một loại bệnh: "bệnh thành tích". Từ năm 2007, ngành giáo dục đã từng phát động "Nói không với bệnh thành tích"! Bệnh không thuyên giảm mà có xu hướng ngày một trầm trọng hơn. Do vậy, tôi đề nghị bỏ khen thưởng ở cấp cơ sở, quận/huyện, tỉnh/thành phố...; chỉ giữ lại khen thưởng ở cấp T.Ư. Nên bỏ các cuộc thi "GV dạy giỏi"; "GV chủ nhiệm giỏi", "tổng phụ trách giỏi"... Cần bỏ việc "dự giờ theo chuyên đề cấp quận/huyện" vì thực tế hoạt động này không học tập được gì, thường tâng bốc hoặc soi mói lẫn nhau, phản tác dụng. Cần bỏ việc kiểm tra cấp phòng, cấp sở các loại sổ sách của GV, của trường. Trao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục về việc này".
Điều ước giản đơn: khai giảng xong mới đi học
Chuyện ngược đời tồn tại hàng chục năm qua đó là học sinh tựu trường trước cả tháng trời rồi mới rầm rộ tổ chức lễ khai giảng năm học mới. Điều này được Bộ GD-ĐT chấp nhận, thậm chí hợp pháp hóa bằng ban hành khung kế hoạch thời gian năm học hằng năm, trong đó quy định lịch tựu trường cho phép từ 1.8 và khai giảng vào ngày 5.9. Cận kề ngày khai giảng năm học vừa qua, ông Phùng Xuân Nhạ, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đến thăm một trường học ở vùng sâu, vùng xa và khi hỏi học sinh lớp 1 của trường này muốn khai giảng xong rồi mới đi học hay đi học rồi mới khai giảng như hiện nay, câu trả lời mà người đứng đầu ngành GD-ĐT nhận được từ học sinh, đó là "con muốn khai giảng rồi mới đi học". Thời điểm này, ông Nhạ hứa sẽ tính toán để thực hiện được mong muốn đó của học sinh trong thời gian tới.
Theo thanhnien
Giấc mơ của những công dân 2000 Nền giáo dục khai phóng, nhiều cơ hội hơn để người nghèo có kế sinh nhai bền vững và một Việt Nam xanh hơn, phát triển bền vững hơn, đó là những kỳ vọng của người trẻ trong thập niên mới. Sinh viên nghiên cứu khoa học - NGỌC THẮNG Trần Phạm Gia Bảo, chào đời lúc 0 giờ 0 phút ngày 1.1.2000,...