Đại học muốn tự chủ phải công khai tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm
Ngoài việc được tự xác định mức học phí, các trường sẽ được chủ động mở ngành đào tạo khi đáp ứng đủ điều kiện của Luật Giáo dục.
Chiều 19/11, Quốc hội đã bỏ phiếu thông qua Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) với hơn 84% đại biểu có mặt tán thành.
Theo luật này, các trường thực hiện quyền tự chủ khi đã thành lập hội đồng trường; đã được công nhận đạt chuẩn bởi tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục hợp pháp; đã ban hành và thực hiện quy chế tổ chức và hoạt động, quy chế tài chính và có chính sách bảo đảm chất lượng đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng do nhà nước quy định…
Các cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ phải công khai điều kiện bảo đảm chất lượng, kết quả kiểm định, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm và các thông tin khác theo quy định của pháp luật.
Quyền tự chủ trong tài chính và tài sản của các trường gồm ban hành và thực hiện các quy định nội bộ về nguồn thu, quản lý và sử dụng các nguồn tài chính, tài sản; thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển; chính sách học phí, học bổng cho sinh viên…
Các đại học công lập đáp ứng điều kiện nói trên và tự bảo đảm kinh phí chi thường xuyên thì được tự chủ xác định mức học phí. Các trường còn lại xác định học phí theo quy định của Chính phủ.
“Việc xác định mức thu học phí phải căn cứ vào định mức kinh tế – kỹ thuật theo lộ trình tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo”, luật quy định.
Quốc hội thông qua luật Giáo dục đại học sửa đổi. Ảnh: Trung tâm báo chí QH
Cơ sở phải công khai chi phí đào tạo, học phí, mức thu dịch vụ tuyển sinh và các khoản dịch vụ khác cho lộ trình cả khoá học và từng năm học đi kèm thông báo tuyển sinh và trên trang thông tin điện tử; có trách nhiệm trích một phần nguồn thu học phí để hỗ trợ sinh viên khó khăn.
Các trường được chủ động mở ngành đào tạo
Trước đây, hầu hết các nội dung liên quan chuyên môn (như xác định chỉ tiêu tuyển sinh, nội dung, chương trình đào tạo, tổ chức và quản lý đào tạo, nghiên cứu khoa học…) đã được giao cho các trường tự quyết định, trừ việc mở ngành đào tạo.
Dự thảo Luật lần này mở rộng quyền tự chủ, cho phép các trường đáp ứng đủ điều kiện thì được tự mở ngành đào tạo ở tất cả các trình độ của giáo dục đại học, trừ lĩnh vực sức khỏe, giáo viên và an ninh, quốc phòng.
Video đang HOT
Theo điều 33, điều kiện để mở ngành đào tạo đại học, thạc sĩ, tiến sĩ là ngành mới mở phải phù hợp nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế- xã hội của địa phương, cả nước, của từng lĩnh vực; có đội ngũ giảng viên, cán bộ cơ hữu đủ số lượng, chất lượng; có cơ sở vật chất, giáo trình đáp ứng yêu cầu giảng dạy, học tập, nghiên cứu; có chương trình đào tạo theo quy định.
Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo quy định chi tiết điều kiện mở ngành.
Nếu trường tự mở ngành khi chưa bảo đảm điều kiện sẽ bị đình chỉ hoạt động đào tạo đối với ngành đó và bị cấm mở ngành trong 5 năm.
Luật cũng nêu rõ, trước khi khóa đầu tiên tốt nghiệp, chương trình đào tạo phải được đánh giá chất lượng để đảm bảo đầu ra và quyền lợi của người học, nếu không đạt sẽ phải dừng tuyển sinh.
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2019.
Chủ tịch Hội đồng trường không cần là tiến sĩ
Đối với tiêu chuẩn của chủ tịch hội đồng trường, luật quy định, đây phải là người có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có uy tín; có kinh nghiệm quản lý giáo dục đại học, đủ sức khỏe để thực hiện nhiệm vụ; độ tuổi đảm nhiệm chức vụ.
Chủ tịch hội đồng trường do hội đồng trường bầu trong số các thành viên của hội đồng trường theo nguyên tắc đa số, bỏ phiếu kín và được cơ quan quản lý có thẩm quyền ra quyết định công nhận; trường hợp thành viên bên ngoài trúng cử thì phải trở thành cán bộ cơ hữu của trường; chủ tịch hội đồng trường không kiêm nhiệm các chức vụ quản lý trong trường…
Uỷ ban Văn hoá Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng cho biết, đây thực chất là chức danh quản trị, đòi hỏi phải có uy tín cả trong và ngoài trường nhưng không nhất thiết phải có học vị tiến sĩ, có uy tín khoa học như đối với hiệu trưởng.
Hoàng Thùy
Theo VNE
Hội Đồng trường - Tự chủ đại học: Cần gỡ bỏ rào cản, không hình thức, không giả dối
Chỉ có nhà nước mới có thể giúp các trường đại học gỡ bỏ các trở ngại và rào cản để tiến trình tự chủ của họ trở thành thực chất, không đối phó, không hình thức, không giả dối; và chỉ có như vậy thì mới mong thay đổi được hình ảnh của giáo dục đại học Việt Nam.
GS.TS Trần Đức Viên, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã phân tích như vậy khi nói về: " Hội đồng trường trong tiến trình tự chủ đại học".
GS.TS Trần Đức Viên cho rằng, về bản chất, tự chủ đại học xa lạ và đối lập với quản lý hành chính áp đặt. Trường đại học được tự khẳng định vị thế và tầm vóc của họ để thích ứng với cơ chế thị trường, trong đó, Hội đồng trường với vai trò quản trị là thiết chế có quyền lực cao nhất trong nhà trường, và Hiệu trưởng thực hiện quản lý nhà trường như một Giám đốc điều hành (CEO).
Cho đến nay mới có một số rất nhỏ trường đại học công lập (23/169 trường, khoảng 13,6%) dám bước đi những bước chập chững đầu tiên trên con đường tự chủ; và cũng chỉ mới có khoảng 1/3 số trường có Hội đồng trường (HĐT), và ngay các trường đã được Chính phủ giao "thí điểm" tự chủ, số trường có Hội đồng trường cũng không cao. Số đông các trường đại học công lập còn lại còn lại vẫn đang chờ đợi trong âu lo và ngại ngần.
Một câu hỏi đặt ra là, tại sao một chủ trương đúng đắn như thế lại chưa được "cuộc sống" của các trường đại học nhiệt tình đón nhận? Và, bằng cách nào để những chủ trương và đường lối ấy có thể thực sự mang đến những luồng sinh khí mới cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam?
Nhà nước đã giao quyền tự chủ là giao tự chủ toàn diện cho các trường đại học.
Tự chủ đại học - Pháp lý không rõ ràng
GS Trần Đức Viên cho rằng, hệ thống pháp lý về tự chủ đại học hiện nay vừa thiếu đồng bộ, vừa không rõ ràng, khung pháp lý, cản trở, chồng chéo, thậm chí triệt tiêu nhau như: "mở" ở điều này, luật này nhưng lại "đóng" ở điều khác, luật khác; hoặc là trao quyền tự chủ trên văn bản, nhưng vẫn "trói buộc" trên thực tế do cơ chế không theo kịp thực tiễn.
Các văn bản pháp quy hiện hành cũng như các cơ quan quản lý nhà nước về GD&ĐT và các bộ ngành liên quan đều không nói rõ cách thức làm thế nào để các trường đại học được giao thí điểm tự chủ có thể đạt được, những thay đổi đầy tham vọng của Nghị quyết 77 và các chính sách có liên quan khác, trong đó có việc phát huy vai trò và trách nhiệm của thiết chế HĐT.
Bên cạnh đó, trong các văn bản pháp quy hiện hành, kể cả các dự thảo luật về giáo dục và đào tạo vừa được đưa ra xin ý kiến Quốc hội, đều không thấy điều khoản nào quy định cụ thể quyền của các trường đại học trong việc tự xác lập quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của họ. Trong khi đó, cụm từ &'theo quy định' lại xuất hiện với tần suất cao trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến tự chủ đại học; và khi cụm từ &'theo quy định' càng tăng thì tự chủ đại học thực chất càng giảm.
Cơ sở giáo dục chưa sẵn sàng
Theo GS Viên, các cơ sở giáo dục đại học đều chưa sẵn sàng về tâm và thế để đón nhận thiết chế HĐT. Hầu hết Hiệu trưởng các trường được giao thí điểm tự chủ chưa thực sự sẵn sàng về tâm và thế để đón nhận thiết chế HĐT, vì cơ chế HĐT có thể là tốt với tiến trình tự chủ của nhà trường, nhưng chưa chắc đã tốt cho vị trí của người đứng đầu hiện nay, nhất là đối với các hiệu trưởng thiếu năng lực.
Thể chế HĐT thực tế sẽ tạo một sự "dịch chuyển quyền lực", chỉ khi có quyết tâm chính trị mạnh mẽ của những người lãnh đạo cấp cao mới mong thực hiện được.
Nếu không, đa phần các trường vẫn chạy theo lối mòn quản lý cũ và khai thác những lợi thế đã tích lũy được từ trước, chứ không phải từ tự chủ đại học.
Gỡ bỏ rào cản, không giả dối, không hình thức
GS Trần Đức Viên cho rằng, Trường đại học là một tổ chức học thuật, khác rất nhiều với các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan hành chính, cần có cơ chế hoạt động riêng, cần có khoảng trời riêng để phát triển. Muốn vậy, cần có một khâu đột phá đó là tiến hành cơ chế tự chủ đại học với xương sống là thiết chế HĐT- tổ chức quản trị, là cơ quan quyền lực cao nhất của trường đại học.
Chỉ có nhà nước mới có thể giúp các trường đại học gỡ bỏ các trở ngại và rào cản để tiến trình tự chủ của họ trở thành thực chất, không đối phó, không hình thức, không giả dối; và chỉ có như vậy thì mới mong thay đổi được hình ảnh của GDĐH Việt Nam.
Nhà nước đã giao quyền tự chủ là giao tự chủ toàn diện cho các trường đại học. Theo GS Viên, Nhà nước chỉ nên tập trung vào 3 vấn đề: hình thành khung pháp lý phục vụ mục đích của quản lý nhà nước; cấp ngân sách dựa vào KPIs của CSGD và hình thức cấp như thế nào; và xây dựng quy chế đảm bảo khả năng giám sát và tính giải trình minh bạch.
Còn các việc khác hãy để cho các trường tự chủ làm. Vì nếu cơ quan chủ quản và Bộ GD&ĐT không tập trung vào chức năng quản lý nhà nước, vẫn duy trì cơ chế &'xin cho', &'cấp phép' thì họ sẽ tiếp tục cản trở hoạt động của HĐT.
Nhưng chính các trường mới là tổ chức quyết định tính chất, phạm vi và mức độ tự chủ của họ thông qua (hình thành khung pháp lý phục vụ mục đích của quản lý nhà nước) các KPIs mà họ cam kết với Nhà nước và với xã hội, và (cấp ngân sách dựa vào KPIs của CSGD và hình thức cấp như thế nào) Năng lực thực tế của HĐT trong quản trị nhà trường. Vì thế, mức độ tự chủ của các trường không nhất thiết phải như nhau.
Nếu cắt giảm chi thường xuyên sẽ nảy sinh hiện tượng "cận huyết"
GS Trần Đức Viên cho biết, tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay được khá nhiều người, kể cả cơ quan quản lý và quan chức nhà nước, hiểu trước hết và then chốt là tự chủ tài chính, và nhà nước cắt giảm chi thường xuyên, giảm đầu tư trong khi tự chủ khác với tự lo, tự bơi, tự cung tự cấp.
Điều này trái với thực tế tự chủ đại học trên thế giới, đó là khi giao quyền tự chủ cho đại học thì nhà nước chỉ thay đổi cách đầu tư: thay đầu tư theo dòng kinh phí-hạng mục (line-iterms) sang đầu tư một khoản kinh phí (block grants) theo cách đặt hàng và giao nhiệm vụ trên cơ sở kết quả &'đầu ra' (KPIs) của CSGD; Nhà trường được quyền linh động sử dụng nguồn kinh phí đó một cách hiệu quả nhất.
Nhà nước và xã hội tăng cường giám sát tính minh bạch và hiệu quả việc sử dụng kinh phí của Nhà trường.
Quan trọng nhất của tự chủ là tự chủ về chuyên môn và tự do học thuật. Không nên cho rằng cốt lõi và căn bản nhất của tự chủ đại học là tự chủ tài chính, tự chủ đầu tư, và lấy mức độ tự chủ về tài chính và đầu tư làm thước đo để nhà nước quyết định về mức độ, phạm vi và tính chất tự chủ của các trường.
GS Viên cho rằng, nếu cứ bắt các trường phải lo kiếm sống để tồn tại thì như một lẽ tự nhiên, họ phải lo "nồi cơm" của họ trước khi lo đến chất lượng đào tạo và các sứ mệnh khác của trường đại học; tự chủ tài chính theo cách như vậy, cùng với thực trạng gần như "tháo khoán" về tuyển sinh đại học trong những năm gần đây, và hiện tượng "cận huyết" trong tiếp nhận và đào tạo giảng viên, sẽ để lại những di chứng không mong muốn cho đất nước trong nhiều thập niên tới.
Theo GS Viên, với điều kiện nước ta hiện nay, chưa nên khuyến khích hay ép buộc (bằng một cách nào đó) thành lập HĐT ở tất cả các trường đại học; chỉ nên thành lập ở các trường đã hội đủ điều kiện, đã thể hiện đủ năng lực để có thể thực hiện được các quyền tự chủ trên cơ sở nhận thức đầy đủ trách nhiệm xã hội; Đã được giải phóng khỏi cơ chế bộ chủ quản hoặc có bộ chủ quản nhưng trên thực tế đã được giải phóng khỏi cơ chế bộ chủ quản.
Hồng Hạnh ( ghi)
Theo Dân trí
Mô hình về trao quyền tự chủ cho một số cơ sở đào tạo giáo viên Một số nước trên thế giới đã thực hiện giao quyền tự chủ hoàn toàn cho các cơ sở giáo dục đại học trong việc đào tạo giáo viên như: Mỹ, Đức, Úc, Phần Lan,... Ảnh minh họa/internet Những thông tin này được đưa ra trong đề tài KHCN cấp quốc gia: "Quy hoạch mạng lưới trường sư phạm ở Việt Nam đến...