Đại học cần mạnh dạn, cởi bỏ rập khuôn để tự chủ
“Các trường đại học cần tiếp tục đổi mới, mạnh dạn hơn nữa trong thực hiện quyền tự chủ, tự quyết, một cách có giám sát trước Nhà nước và xã hội”.
Đó là ý kiến của Đại tướng Đỗ Bá Tỵ, Phó Chủ tịch Quốc hội đưa ra tại hội thảo giáo dục 2018 với chủ đề Giáo dục đại học – Chuẩn hóa và hội nhập quốc tế.
Hội thảo có sự tham gia của khoảng 200 đại biểu là lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước; các vị đại biểu quốc hội, đại diện các đoànn ngoại giao, các tổ chức quốc tế, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà giáo, doanh nhân…
Đại học – Tự chủ, tự quyết, có giám sát
Phó Chủ tịch Quốc hội Đỗ Bá Tỵ cho rằng chủ trương của Đảng và Nhà nước coi giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp trồng người, luôn phải được ưu tiên để tạo dựng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho xây dựng đất nước. Chủ trương này càng được khẳng định rõ nét hơn trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa.
Đại tướng Đỗ Bá Tỵ, Phó Chủ tịch Quốc hội.
Trong đó, giáo dục đại học (GDĐH) là nơi chịu trách nhiệm cuối cùng của hệ thống giáo đục để đưa ra sản phẩm giáo dục cho xã hội. Đồng thời đây là cấp học có vai trò quyết định trong việc xây dựng và phát triển lực lượng lao động chất lượng cao cho cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước, Phó Chủ tịch Quốc hội Đỗ Bá Tỵ nhận định.
Đồng thời, trong hơn 30 năm đổi mới, giáo dục đại học đã đạt được những thành tự quan trọng, góp phần to lớn thực hiện thành công trong sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước tiến vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa từng bước hội nhập tích cực.
Trường đại học sẽ đảm đương trách nhiệm đào tạo nhân lực có sức cạnh tranh hội nhập trong khu vực và quốc tế. Do đó, các trường cần có tự chủ thì mới có khả năng bứt phá lên trong hội nhập và khẳng định tên tuổi trước thế giới.
Phó Chủ tịch Quốc hội Đỗ Bá Tỵ phát biểu tại hội thảo giáo dục 2018
Cởi bỏ dập khuôn
Ông Dilip Parajuli, chuyên gia của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam thống kê, hiện nay Việt Nam xếp hạng thứ 84/137 về chất lượng giáo dục đại học và có 2 trường đại học lot top 1.000 trường của thế giới (ĐH Quốc gia Hà Nội; ĐH Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh) và 5 trường lot top 400 của châu Á. Theo đại diện này, như vậy là thấp so với chính khu vực và thế giới.
Ông Dilip Parajuli, chuyên gia của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam.
Theo ông Dilip Parajuli, nguyên nhân chính của thứ hạng thấp này là do các chính sách đang kìm hãm sự “bùng nổ” của các trường đại học. Nên cởi bỏ “chiếc áo dập khuôn” trong việc quản lí về mặt tài chính và hành chính trong các trường phát triển.
“Việc tiếp cận và đánh giá này thì không nên có trong luật mà chỉ là một cách để các trường cần làm để vừa nâng cao vừa làm vấn đề hướng đi phát triển cho chính các trường. Đồng thời, Chính phủ chỉ mang tính định hướng trong việc tự chủ đại học, còn lại các trường sẽ tự chọn hướng đi cho mình.
Các trường sẽ chịu trách nhiệm trước Nhà nước và trước chính sinh viên của mình cho nên các trường đừng rụt dè, hãy mạnh dạn xin tự chủ để nâng cao chất lượng và thứ hạng cho mỗi trường nói riêng và giáo dục Việt Nam nói chung”, ông Parajuli chia sẻ thêm.
Bên cạnh đó, xu hướng toàn cầu trong giáo dục đang diễn ra rất mạnh, số lượng du học sinh tăng cao; các trường mở phân hiệu tại các quốc gia mới nổi về kinh tế. Đồng thời, tăng số lượng giảng viên quốc tế và hợp tác nghiên cứu và xếp hạng trường ĐH quốc tế là những nhu cầu không thể không làm để giải bài toán hội nhập. Nhưng cho đến nay cả 4 khía cạnh này, tỉ lệ của Việt Nam đều vẫn rất thấp, mới chỉ đang ở mức độ tiệm cận. Dù muốn hay không thì Việt Nam vẫn cần phải tham gia vào các bảng đánh giá trên thế giới để khẳng định việc hội nhập của mình.
Không trông đợi ngân sách Nhà nước
Theo tham luận của Bộ Tài chính đánh giá, nguồn tài chính cho giáo dục đại học (GDĐH) còn hạn hẹp, chưa được đa dạng hóa. Các cơ sở GDĐH chưa chủ động về nguồn thu, chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách nhà nước và từ thu học phí (đối với cơ sở GDĐH công lập) và nguồn thu học phí (đối với cơ sở GDĐH ngoài công lập), nguồn thu từ hoạt động dịch vụ, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ còn hạn chế.
Toàn cảnh hội thảo.
Học phí của các cơ sở GDĐH (công lập, ngoài công lập) nhìn chung còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội thực tế của đất nước nên chưa thể có mức thu cao; về nguyên tắc các cơ sở GDĐH công lập thu học phí theo khung học phí do nhà nước quy định. Mức học phí chưa phù hợp với chi phí đào tạo thực tế của các nhóm ngành, các bậc đào tạo.
Từ những nhận định này, Bộ Tài chính đã đưa ra một số đề xuất. Bộ Tài chính đề nghị Bộ Giáo dục & đào tạo các trường đại học cần nghiên cứu từng bước giải quyết các vấn đề bất cập về vấn đề học phí trong các cơ sở GDĐH. Đảm bảo lợi ích của các cơ sở GDĐH nhưng cần phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước. Bên cạnh đó cần nghiên cứu đề xuất để thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với người học, ví dụ chính sách về tín dụng đào tạo, chính sách học bổng, chính sách miễn giảm học phí đối với đối tượng chính sách.
Đồng thời, Bộ Tài chính cũng đề nghị các cơ sở GDĐH (công lập và ngoài công lập) cần chủ động trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch tài chính theo hướng tự chủ nguồn thu, nhiệm vụ chi; tránh tình trạng các cơ sở GDĐH công lập trông chờ và nguồn ngân sách nhà nước.
Về xác định mức thu học phí, các cơ sở GDĐH dựa trên kinh nghiệm hoạt động của từng trường, dự báo nhu cầu của xã hội để xác định quy mô tuyển sinh, ngành nghè đào tạo thế mạnh… và xác định mức học phí bảo đảm lợi ích của nhà trường, đồng thời phù hợp với khả năng đóng góp của xã hội, tránh để học phí làm gánh nặng quá lớn cho nỗi lo đi học như một số trường đại học hiện nay.
Hà Cường
Theo Dân trí
Cả nước chỉ có 23 đại học công lập tự lo 100% kinh phí
Câu chuyện tự chủ đại học đang đặt nặng về tài chính mà chưa chú trọng tới tổ chức, quản trị, hoạt động đào tạo, khoa học công nghệ...
Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng vừa giám sát việc thực hiện Luật giáo dục đại học ở 16 cơ sở giáo dục đại học tại 7 tỉnh, thành phố, trong đó có giám sát về việc thực hiện quyền tự chủ. Ông Phạm Tất Thắng, Phó chủ nhiệm Ủy ban, có cuộc trao đổi với VnExpress về vấn đề này.
- Ông đánh giá thế nào việc thực hiện quyền tự chủ đại học của các trường?
- Theo Luật giáo dục đại học, tự chủ đại học rất toàn diện, bao gồm tự chủ về tổ chức bộ máy - nhân sự, tài sản - tài chính và chuyên môn học thuật. Các cơ sở giáo dục đại học đã chủ động hơn trong việc này và quyền tự chủ đã mang đến những chuyển biến tích cực cả về nhận thức và tổ chức thực hiện.
Tuy nhiên, việc thực hiện quyền tự chủ đại học vẫn còn một số hạn chế, trong đó có sự chưa thống nhất trong quan niệm. Về phía cơ quan nhà nước, tự chủ đại học hiện được tiếp cận từ góc độ tài chính, chủ yếu là mức độ tự bảo đảm kinh phí hoạt động mà chưa chú trọng tới tổ chức, nhân sự, quản trị, tiềm lực và kinh nghiệm về hoạt động đào tạo, khoa học, công nghệ cũng như các điều kiện khác.
Trong khi đó, các trường cho rằng tự chủ là bản chất, là thuộc tính và là quyền đương nhiên được hưởng mà không thấy rằng việc thực hiện tự chủ phụ thuộc vào năng lực thực hiện của đơn vị đáp ứng các tiêu chí định trước về chi phí và kết quả hoạt động.
Nhìn chung, câu chuyện tự chủ đang đặt nặng tự chủ về tài chính.
Ông Phạm Tất Thắng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng. Ảnh: Dương Tâm
- Tại sao bây giờ mới có 23 trường công lập được thí điểm giao quyền tự chủ cao?
- 23 cơ sở giáo dục đại học công lập được Chính phủ cho thí điểm tự chủ đều là những trường có thể tự lo 100% kinh phí, từ chi thường xuyên đến đầu tư phát triển. Và tôi cho rằng việc các trường lo được toàn bộ kinh phí mới được thí điểm giao quyền tự chủ cao là chưa hoàn toàn phù hợp.
Thực tế cho thấy những trường tự lo được kinh phí hiện nay chủ yếu là giảng dạy các ngành kinh tế, xã hội, nhân văn, kỹ thuật, công nghệ. Hầu hết trường trong số đó không phải đầu tư máy móc, phòng thí nghiệm nhiều và có nhiều ngành đào tạo có nhu cầu xã hội cao.
Ngược lại, nhu cầu đối với ngành thuộc trường khối sư phạm hay khoa học cơ bản không cao, xã hội không thực sự mặn mà trong khi rõ ràng nhà nước, nền kinh tế xã hội lại cần. Vì vậy nếu đặt nặng vấn đề kinh phí, những trường này khó có thể tự chủ cao được.
Tuy nhiên, các trường cũng cần thoát khỏi tư duy bao cấp, trông chờ quá nhiều vào ngân sách nhà nước để hướng tới sự phát triển, tránh làm mất đi tính năng động, chủ động, tự chủ. Hiện tại, ngoài 23 trường tự chủ hoàn toàn về tài chính, nhà nước, các bộ ngành, địa phương vẫn cấp kinh phí cho các trường công lập theo số lượng sinh viên.
Tôi cho rằng cần đổi mới cơ chế đầu tư. Nhà nước phải ra nhiệm vụ "đặt hàng" hoặc thậm chí các trường phải đấu thầu với nhà nước, nhận nhiệm vụ nào để có được kinh phí; thậm chí ngay trong một trường, những ngành có nhu cầu xã hội cao sẽ không được nhận kinh phí.
- Theo quy định, đại học được tự chủ về tuyển sinh, nhưng thực tế hầu hết trường phụ thuộc vào kết quả thi THPT quốc gia. Qua giám sát, ông ghi nhận lý do gì dẫn tới điều này?
- Tôi không nghĩ tuyển sinh dựa theo kết quả thi THPT quốc gia là không tự chủ. Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường được phép có phương án tuyển sinh riêng, lập đề án để Bộ phê duyệt và tiến hành tổ chức. Thế nhưng chỉ có một số ít trường yêu cầu đào tạo về năng khiếu mới có thêm xét tuyển và đánh giá riêng, còn lại hầu hết dựa trên kết quả thi THPT quốc gia. Đó là do trường lựa chọn, là biểu hiện của quyền tự chủ vì họ đã chọn giải pháp tối ưu nhất.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các trường tuyển sinh dựa vào kết quả thi THPT quốc gia. Thứ nhất, những năm trường tổ chức tuyển sinh đại học riêng thì hầu hết đều kêu lỗ, vì lệ phí tuyển sinh được phép thu không đủ lấy thu bù chi. Như vậy, xét tuyển trên kết quả thi THPT quốc gia là phương án tối ưu về kinh tế.
Thứ hai, kết quả thi THPT quốc gia là chắc chắn, an toàn cho các trường vì đây là kỳ thi quốc gia do Bộ Giáo dục tổ chức, một kỳ thi trên nguyên tắc phải rất nghiêm túc, chính xác, khách quan và công bằng.
Thứ ba, việc tổ chức một kỳ thi đánh giá năng lực về kiến thức phổ thông không phải dễ thực hiện với tất cả trường vì không phải trường nào cũng có đội ngũ giáo viên cơ bản để ra đề và chấm thi.
Như vậy, các trường tuyển sinh dựa trên kỳ thi THPT quốc gia là thuận tiện về nhiều phương diện. Bộ Giáo dục không bắt buộc phải theo hình thức nào thì đương nhiên các trường sẽ chọn tuyển sinh theo cách này dù xét về mặt chất lượng sự phù hợp của thí sinh thì chắc không được tốt bằng việc có phương án tuyển sinh riêng.
- Vậy cách tuyển sinh nào là tốt nhất?
- Như tôi nói ở trên, cách tuyển sinh dựa theo kết quả thi THPT quốc gia là tối ưu về nhiều phương diện, nhưng sẽ không tuyển được thí sinh phù hợp nhất, chất lượng nhất với các ngành nghề, trường đào tạo. Vì vậy, nếu cứ mãi chọn theo phương án này, tôi cho là cũng không tốt.
Về mặt chuyên môn, nếu tổ chức được một kỳ thi riêng, các trường sẽ vừa thể hiện quyền tự chủ của mình, vừa lựa chọn được những thí sinh tốt nhất, đáp ứng nhu cầu cao nhất của trường về mặt đào tạo. Đầu vào tốt thì đương nhiên đó là điều kiện cần để có đầu ra tốt.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, các trường lựa chọn phương án tuyển sinh theo kết quả thi THPT quốc gia là rất bình thường vì nó đơn giản, an toàn và hiệu quả nhất. Khi tổ chức kỳ thi tuyển sinh riêng, ngoài khó khăn về kinh tế, khâu tổ chức, các trường phải chịu áp lực lớn vì dư luận xã hội rất quan tâm. Bất kỳ một sơ suất nào cũng ảnh hưởng rất lớn đến nhà trường.
- Nhiều nhà giáo dục cho rằng cơ chế tự chủ đại học làm số lượng trường gia tăng mạnh. Để đảm bảo tồn tại, các trường tuyển sinh bằng mọi giá dẫn đến chất lượng đầu vào thấp. Quan điểm của ông về việc này như thế nào?
- Có thời điểm chúng ta tính việc phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục đại học theo cách tính số sinh viên trên 10.000 dân. Theo chỉ tiêu đó, số sinh viên và số trường của Việt Nam chưa phải quá nhiều so với khu vực.
Tuy nhiên so với thực tế, có thể thấy dường như số lượng gần 250 đại học của Việt Nam là nhiều dẫn đến hệ lụy nguồn tuyển đầu vào bị hạn chế. Rõ ràng để đảm bảo điều kiện tồn tại, một số trường đã phải lấy điểm tuyển sinh thấp khiến chất lượng thí sinh không cao, làm ảnh hưởng đến chất lượng đầu ra.
Giáo dục đại học khác các bậc khác là phải sáng tạo ra tri thức mới cho xã hội thông qua con đường nghiên cứu khoa học. Nếu say sưa vào việc có số lượng sinh viên tối đa để thu được học phí nhiều, các trường sẽ bị chi phối về thời gian, nguồn lực; từ đó bị hạn chế nghiên cứu khoa học vì nghiên cứu cần sự đầu tư rất lớn về tài chính, con người và thời gian.
- Vậy để các đại học vừa tự chủ, vừa có tên trên bảng xếp hạng quốc tế, các đại học Việt Nam phải làm gì?
- Rõ ràng các bảng xếp hạng đại học quốc tế uy tín rất chú trọng công bố quốc tế, các lượt trích dẫn... Đó là kết quả của những nghiên cứu khoa học được công nhận. Như vậy, các trường muốn có mặt trong các bảng xếp hạng thì buộc phải thay đổi định hướng hoạt động của mình, không chỉ chú trọng vào việc dạy mà còn phải quan tâm nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ.
Khi lọt vào một bảng xếp hạng thì thương hiệu, uy tín nhà trường sẽ tăng lên, cơ hội hợp tác quốc tế cũng nhiều hơn. Việc tham gia các bảng xếp hạng đại học thế giới là xu thế và các trường được khuyến khích để làm việc đó. Các trường phải đối chiếu với hệ thống tiêu chí của các bảng xếp hạng để bổ sung cái còn thiếu.
Vào ngày 17/8 tới, Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng tổ chức Hội thảo Giáo dục 2018 với chủ đề "Giáo dục đại học - Chuẩn hóa và hội nhập quốc tế". Chúng tôi mong muốn có thể nhận diện được thực trạng giáo dục đại học Việt Nam, từ đó có đề xuất, định hướng, những giải pháp cơ bản để tạo điều kiện cho giáo dục phát triển, đồng thời có những góp ý vào việc sửa đổi Luật giáo dục đại học.
Dương Tâm
Theo Vnexpress
"Các trường đại học không thể tự nhận trường tốt, trường lớn được" Việc hội nhập quốc tế của giáo dục đại học là cả một quá trình dài để ta xác định đâu là chuẩn, đâu là điều kiện mà chúng ta phải phấn đấu, không phải là câu chuyện ngày một ngày hai. Các trường không thể tự nhận là trường tốt, mà phải dựa vào đánh giá của các tổ chức kiểm định...