Cử nhân tin học ngành giáo dục, tại sao không?
Rất nhiều trường đang sử dụng bảng thông minh thì nhu cầu về nhân viên IT tại các trường học phải có chuyên môn về sư phạm càng tăng cao.
Ảnh minh họa/internet
Những khó khăn đang gặp phải…
Từng hỗ trợ quản lý một doanh nghiệp du lịch, tôi cùng ban giám đốc đã rất vất vả khi phải sử dụng một phần mềm tính tiền chung cho mọi ngành kinh doanh.
Rồi phải đào tạo, trao đổi nhiều với người viết phần mềm về các đặc thù của ngành, các ngóc ngách của kế toán du lịch…trong thời gian khá dài chưa kể vừa làm vừa điều chỉnh từ đó mới có thể chạy được phần mềm một cách suôn sẻ.
Rồi khi làm website cho doanh nghiệp, cũng phải cung cấp các thông tin cơ bản về kinh doanh khách sạn online, cách thu hút khách du lịch qua website, các thủ thuật sử dụng khi thiết kế website dành riêng cho du lịch…
Và rất nhiều công việc khác phải nhờ cậy đến công nghệ thông tin, tôi đã khá vất vả vì rất đơn vị cung ứng giỏi về IT nhưng vẫn còn hạn chế về các chuyên ngành đặc thù.
Tìm hiểu qua ngành giáo dục khi giáo án điện tử được áp dụng, rất nhiều trường đang sử dụng bảng thông minh thì nhu cầu về nhân viên IT tại các trường học phải có chuyên môn về ngành giáo dục càng tăng cao.
Không chỉ là nhân viên IT đơn thuần được sử dụng cho việc lắp đặt máy tính, bảo trì sự cố mạng, quản trị website mà chính họ sẽ là những người trợ giảng thực sự cho giáo viên ở lớp, góp phần cho sự thành công của một bài giảng trực quan.
Có nên đào tạo thêm chuyên khoa về giáo dục cho cử nhân tin học?
Sẽ thực tế hơn nếu trong chương trình đào tạo bậc đại học có những lớp học chuyên sâu về lập trình dành riêng cho ngành du lịch, y tế, quản lý hành chính nhân sự, kế tóan kiểm toán…để sinh viên có cơ hội tiếp cận với thực tế, với doanh nghiệp và khi ra trường sẽ không bị bỡ ngỡ.
Đối với ngành giáo dục, sinh viên sẽ nắm bắt công việc của giáo viên để cùng thiết kế bài giảng, xây dựng clip, chụp ảnh, quay phim phục vụ cho giáo án điện tử bởi giáo viên “tay ngang” sẽ không thể làm đẹp như sinh viên CNTT nhưng ngược lại sinh viên CNTT học chung chung thì sẽ không nắm được từng cốt lõi của vấn đề trong đào tạo.
Một kinh nghiệm mà tôi đã từng được trải qua khi được tham gia tìm hiểu về một khóa học online về “Lập kế hoạch và thực hiện công cụ hỗ trợ giảng dạy” ở Hoa Kỳ mà tôi rất quan tâm.
Khóa học này bao gồm việc thiết kế, phát triển và sử dụng các phương tiện truyền thông phục vụ ngành giáo dục. Chủ đề bao gồm thiết kế bài giảng bằng cách sử dụng các phương tiện truyền thông chuyên ngành, nhiếp ảnh, sản xuất video, thuyết trình máy tính và xuất bản ấn phẩm giáo dục.
Khóa học này được giảng dạy hoàn toàn trực tuyến nên sinh viên không bị hạn chế về thời gian lên lớp và có thể trao đổi với giáo sư qua email, đặt lịch hẹn trực tuyến tuy nhiên mỗi ứng với mỗi chương học, sinh viên sẽ phải thực hiện một số sản phẩm đa phương tiện theo yêu cầu của giáo sư như là bài tập khóa học.
Tài liệu trình bày trong khóa học này được áp dụng cho tất cả các cấp giáo dục từ giáo dục tiểu học đến đại học vì vậy khi sinh viên chuyên ngành sư phạm hoặc công nghệ thông tin học khóa học này đều có thể áp dụng vào môi trường giáo dục mọi cấp độ được sau khi ra trường. Mục đích khóa học cũng được xác định rõ ràng nhằm giúp sinh viên thiết kế, phát triển và tạo ra tài liệu giảng dạy cho việc giảng dạy.
Video đang HOT
Khóa học sử dụng các hướng dẫn, bài đọc, thảo luận, đánh giá chéo giữa các sinh viên và nhận xét trực tiếp từ giáo sư, kèm với đó là các sản phẩm đa phương tiện được thực hiện theo từng đề tài.
Sinh viên sẽ làm việc liên tục với các công cụ của ngành công nghệ thông tin như: chụp ảnh theo yêu cầu bố cục có chủ đề giáo dục để trình bày trên prezi, sử dụng các tính năng đặc biệt của powerpoint để trình bày bài giảng, dùng phần mềm Photoshop thiết kế banner nội dung cho bài giảng, quay phim và sử dụng phần mềm làm phim để thiết kế bài giảng, sử dụng chức năng của winword thiết kế bản tin của trường học và rất nhiều kĩ năng khác để đạt được các mục tiêu và kết quả học tập của khóa học.
Yêu cầu của khóa học không quá cao, mang tính thách đố mà chỉ yêu cầu mọi sinh viên đang học ngành CNTT đang quan tâm đến mảng giáo dục hay sinh viên ngành giáo dục muốn nắm bắt các công cụ của khoa học máy tính để phục vụ cho công tác giảng dạy sau này, phải liên tục đọc tài liệu được cung cấp và thực hiện các bài tập do giáo sư đưa ra.
Thực sự sau khi cùng với giáo sư “vượt qua chướng ngại vật”, dù khá vất vả vì phải vận dụng nhiều kiến thức chuyên ngành CNTT, đòi hỏi nhiều khả năng về thiết kế, chụp ảnh, quay phim, óc thẩm mỹ nhưng ngược lại kết quả của khóa học đối với sinh viên chắn chắn sẽ như ông bà ta đã từng nói “không ngon ngang cũng bổ dọc”.
Thực tế sinh viên trường Y sẽ phải học thêm chuyên khoa sau khi tốt nghiệp đa khoa, từ đó tôi mới đặt ra câu hỏi “Có nên đào tạo chuyên khoa về giáo dục hay chứng chỉ sư phạm cho cử nhân công nghệ thông tin?” để cho các bạn tốt nghiệp ngành CNTT sẽ tự tin hơn khi sử dụng kiến thức chuyên môn của mình ngay sau khi ra trường thay vì phải nhờ các công ty đào tạo lại.
Phan Quốc Vinh
Theo GDTĐ
Bảy kỳ vọng của giáo viên với chương trình, sách giáo khoa mới
Chương trình tổng thể và chương trình môn học dù rất quan trọng nhưng có lẽ sản phẩm cuối cùng đến với thầy - trò là những bộ sách giáo khoa.
LTS: Trước thềm áp dụng chương trình giáo dục phổ thông mới, thầy giáo Nguyễn Cao chia sẻ những mong muốn của giáo viên ở sách giáo khoa mới.
Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết.
Việc Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa thông qua chương trình môn học chính thức là một sự kiện lớn của ngành giáo dục trong những ngày cuối cùng của năm cũ.
Bởi, từ chương trình môn học sẽ mở ra một trang mới cho giáo dục Việt Nam trong những năm tới đây.
Dù còn nhiều ý kiến băn khoăn nhưng đa phần những người quan tâm đến giáo dục nước nhà luôn hy vọng chương trình, sách giáo khoa mới sẽ khắc phục được nhưng hạn chế, bất cập của chương trình, sách giáo khoa hiện hành.
Chương trình hiện hành được áp dụng đại trà từ năm 2002 và nếu tính đến khi áp dụng chương trình giáo dục phổ thông mới thì cũng đã ngót nghét 20 năm trời.
Tính ra, thời gian cho một vòng chương trình, sách giáo khoa cũng không phải là quá ít.
Giáo viên mong muốn gì ở chương trình, sách giáo khoa mới? Ảnh minh họa: TTXVN
Song, nếu nhìn nhận lại toàn bộ quá trình áp dụng của bộ sách giáo khoa hiện hành thì những ưu điểm không thể che lấp được những hạn chế, bất cập khi Bộ liên tục có những hướng dẫn để giảm tải và điều chỉnh nội dung sách giáo khoa.
Bởi, nó vừa nặng về kiến thức hàn lâm, vừa có những nội dung kiến thức trùng lặp không cần thiết.
Bây giờ, chương trình giáo dục tổng thể và chương trình môn học chính thức đã được thông qua. Đồng nghĩa, từ chương trình môn học này, các nhà biên soạn, viết sách giáo khoa sẽ bắt tay vào việc hoàn thiện những bộ sách giáo khoa cho những năm tới đây.
Xét đến cùng, chương trình tổng thể và chương trình môn học dù rất quan trọng nhưng có lẽ sản phẩm cuối cùng đến với thầy - trò ở các nhà trường là những bộ sách giáo khoa được thực hiện như thế nào.
Nói gì thì nói, sách giáo khoa vẫn là sản phẩm quan trọng nhất cho công việc giảng dạy ở nhà trường.
Vì thế, chúng tôi mong muốn bộ sách giáo khoa tới đây phải ưu việt hơn bộ sách giáo khoa hiện hành.Thầy cô muốn giảng dạy hay, muốn truyền tải được thông điệp của người viết chương trình, những người hoạch định chính sách tất nhiên phải có những bộ giáo khoa tốt, phù hợp về kiến thức, lứa tuổi, thiết thực và thiên nhiều về thực hành.
Muốn làm được như vậy, có lẽ những người thực hiện những bộ sách giáo khoa phải có những đầu tư, nghiên cứu kỹ lưỡng và đáp ứng được những yêu cầu sau:
Thứ nhất: Sách giáo khoa phải được đầu tư khoa học, chỉn chu về nội dung, chỉ chỉnh sửa, bổ sung một số môn học như Tin học, Địa lý khi có những thay đổi cần thiết. Những môn còn lại cần được mang tính cố định theo vòng đời của sách giáo khoa.
Tránh tình trạng năm này chỉnh lý, bổ sung một ít, năm sau lại bổn cũ soạn lại. Vô tình, sách cũ sẽ phải bỏ đi, gây lãng phí và bức xúc cho xã hội.
Thứ hai: Khi viết sách, cần tập trung viết những điều thiết thực, cô đọng, súc tích để tránh lại vết xe đổ trong chương trình hiện hành.
Sách vừa mới áp dụng thì Bộ phải ra hướng dẫn giảm tải. Hoặc sách đã viết theo chương, tích hợp từng đơn vị kiến thức, nhưng khi thực hiện lại có những hướng dẫn dạy theo chủ đề, dạy tích hợp liên môn.
Vì thế, những nội dung của sách giáo khoa bị xé nát chẳng theo một trình tự khoa học nào. Vậy nên, điều chúng tôi mong muốn là những người viết sách phải tính toán kỹ lưỡng trước khi áp dụng sách giáo khoa mới.
Thứ ba: Sách giáo khoa cần nhẹ nhàng, giảm tải về nội dung kiến thức, bỏ bớt những kiến thức hàn lâm, những kiến thức lạc hậu không cần thiết để hướng học sinh những điều thiết thực nhất, phù hợp với kiến thức phổ thông, với sự phát triển của đất nước và thế giới.
Điều này sẽ tránh được tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan như hiện nay.
Những hạn chế ở Thông tư 58, Thông tư 22 hiện hành cần được thay thế hoặc bổ sung những điểm phù hợp. Thứ tư: Cần có những hướng dẫn về kiểm tra, đánh giá học sinh một cách thiết thực, nhẹ nhàng nhưng phải cụ thể và mang tính định lượng.
Bởi thực tế thông tư 58 hiện nay hướng dẫn nhiều môn quá nặng về kiểm tra, gây áp lực cho cả thầy và trò ở các nhà trường.
Ví dụ như môn Ngữ văn lớp 9 mỗi học kỳ thì học sinh phải làm tới 11 bài kiểm tra (4 bài thường xuyên, 6 bài định kỳ và 1 bài kiểm tra học kỳ).
Việc kiểm tra nhiều là quá sức cho cả thầy và trò bởi đây chỉ mới một mình môn Ngữ văn mà chương trình thì có đến mười mấy môn học. Trong khi, một số môn lại chỉ xếp đạt và chưa đạt. Hai mức này quá chung chung, đánh đồng với nhau không rõ ràng.
Thông tư 22 thì cách nhận xét, xếp loại học trò tiểu học cũng còn vô vàn bất cập, dẫn đến việc đánh giá, xếp loại học sinh không chính xác.
Thứ năm: Giá thành sách giáo khoa cần phù hợp với túi tiền của dân. Phần bài tập nên thiết kế gọn gàng sau mỗi bài học với nhiều mức độ kiến thức để phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Tránh tình trạng sách giáo khoa đã có bài tập lại thêm sách bài tập dẫn đến sự lãng phí không cần thiết nhưng lại gây áp lực về tài chính cho phụ huynh học sinh.
Thứ sáu: Chương trình mới đã có định hướng là giao quyền lựa chọn sách cho các nhà trường và hướng tới việc tự chủ về chuyên môn.
Việc đánh giá giáo viên, nhà trường cần được thể hiện qua sản phẩm giáo dục hàng năm trong các kỳ thi chuyển cấp, thi tốt nghiệp Trung học phổ thông quốc gia và tỉ lệ đỗ vào các trường chuyên nghiệp.Vì thế, hãy bớt thanh, kiểm tra chuyên môn của cấp Phòng, Sở, Hội đồng bộ môn. Tránh tình trạng soi từng hoạt động dạy học trong giáo án và giảng dạy ở trên lớp.
Việc trọng thành tích qua báo cáo hàng năm chỉ làm tăng thêm tính giả dối và căn bệnh thành tích không khắc phục được.
Thứ bảy: Việc tập huấn cho giáo viên về những môn học mới, những nội dung khó cần được đầu tư bài bản hơn.
Người được lựa chọn báo cáo phải là người am hiểu sâu về chuyên môn, tỏ tường mọi vấn đề và nội dung thay đổi.
Tránh tình trạng tập huấn, bồi dưỡng cho giáo viên mà chỉ chiếu những file được Bộ gửi về một cách máy móc, thụ động nhưng bản chất nội dung tập huấn thì ngay cả người báo cáo cho giáo viên cũng còn lơ mơ, võ đoán.
Việc thay đổi chương trình, sách giáo khoa mới trong những năm tới chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn. Song, vấn đề quan trọng là quyết tâm của Bộ, những lãnh đạo ngành giáo dục ở các địa phương.
Ban đầu, cái gì cũng sẽ mới, sẽ lạ lẫm, sẽ có ý kiến bàn ra bàn vào. Vì thế, khó khăn thì chắc chắn Bộ phải đối mặt nhưng vấn đề là Bộ cần có những quyết tâm cần thiết để giải quyết bài toán ban đầu này.
Trong tác phẩm Cố hương của nhà văn Lỗ Tấn (Trung Quốc) có những câu văn thật chí lý như sau: " Đã gọi là hy vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư. Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường đó thôi".
Và, chương trình giáo dục phổ thông mới của chúng ta đã là thực. Điều còn lại là những người kiến tạo vận dụng hiệu quả chương trình môn học vào bộ sách giáo khoa đó như thế nào mà thôi.
Những hy vọng của giáo viên, của toàn xã hội rất trông chờ về sự thay công trong lần thay đổi chương trình và sách giáo khoa mới lần này. Đừng để mọi người phải thất vọng.
Theo giaoduc.net.vn
TPHCM: Đến năm 2030, ít nhất 20% trường THPT giao tiếp bằng song ngữ Anh - Việt Mục tiêu đến năm 2030 có ít nhất 20% số trường THPT giao tiếp bằng song ngữ Anh - Việt trong các hoạt động giáo dục, đặc biệt là các hoạt động tập thể, ngoại khoá và hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Ông Lê Hoài Nam, Phó giám đốc Sở GD-ĐT TPHCM chia sẻ về vấn đề hợp tác quốc tế của...