Công nghệ khiến con người cô đơn
Người dùng tiêu tốn thời gian, năng lượng cho các mối quan hệ ảo và luôn cảm thấy bất an khi không có mặt trong những bữa tiệc online.
Trong ngày sinh nhật của một người có biệt danh Meow, khoảng 200 bạn bè trên Facebook đã nhắn tin, viết thông điệp chúc mừng. Anh cũng nhận được hàng tá lời khen về bức ảnh “tự sướng” đăng lên Instagram. Mọi thứ khiến anh có vẻ bận rộn nhưng có một nỗi đau không được nhắc tới. Đó là nỗi cô đơn.
Nghe có vẻ mâu thuẫn, nhưng các kết nối ảo lại có khuynh hướng khuếch đại sự cô đơn. “Công nghệ và Internet mang đến cho con người kiến thức và kết nối tốt hơn nhưng việc dành nhiều thời gian, năng lượng cho vô số ‘kết nối ảo’ có thể khiến các mối quan hệ ngoài đời thực ít được quan tâm”, tiến sĩ tâm lý học Elias Aboujaoude thuộc Đại học Stanford, nhận xét về sự giao thoa giữa tâm lý và công nghệ.
Người dùng Internet có thể dễ dàng kết nối với thế giới bằng một cú click chuột nhưng cũng tạo ra những khoảng trống khó có thể lấp đầy.
Nỗi cô đơn luôn hiện diện trong mỗi người, tồn tại rất lâu trước khi con người có thể đếm được số tài khoản đang theo dõi mình hoặc lượt “like” trên mạng xã hội. Tuy nhiên, công nghệ không thể gánh hết trách nhiệm về sự cô đơn. Tính khí, sức khoẻ tinh thần, các sự kiện, chuyến đi xuyên quốc gia, thay đổi công việc, ly dị và sự mất mát đóng vai trò không hề nhỏ.
Tuy nhiên, các chuyên gia cũng cho rằng, con người còn cô đơn hơn vì phần lớn thời gian họ dành cho các mối tương tác ảo trên Internet. Khả năng vô tận của các tương tác trên Internet cũng làm giảm sức chịu đựng sự đơn độc, làm tăng kỳ vọng về số lượng, tốc độ và tần suất kết nối của người dùng mạng xã hội.
“Nếu muốn thành công, chúng ta cần mạng lưới liên lạc khổng lồ”, Susan Matt, Giáo sư chuyên ngành lịch sử tại Đại học Weber State ở Mỹ, nói. Những kỳ vọng này khiến trải nghiệm ở một mình trở nên khó khăn hơn. Thế hệ cũ khó mà hình dung rằng mỗi người hiện có trung bình 339 bạn trên Facebook.
Nghiên cứu của Matt cũng chỉ ra, con người trước kỷ nguyên mạng xã hội không phải đối mặt với những bức ảnh, bài đăng về một kỳ nghỉ trong mơ nào đó mà họ vô tình thấy trên Instagram. Họ không cảm thấy đố kỵ, chán nản khi so sánh với “phiên bản hào nhoáng” của người khác.
Video đang HOT
“Mạng xã hội với lượng tin tức khổng lồ có thể làm con người thấy lo lắng. Họ sợ bị bỏ lại. Khi thấy bức ảnh bạn bè đang trong một buổi tiệc, họ bắt đầu cảm thấy mình bị bỏ rơi và không còn được kết nối với cộng đồng”, Matt chia sẻ.
Covid-19 chứng minh công nghệ có thể kết nối mọi người theo nhiều cách đặc biệt. Nhưng điều gì cũng có hai mặt. Công nghệ gây mất tập trung, mạng xã hội chiếm hầu hết thời gian, tinh thần và làm mọi người quên đi sự thiếu hụt các mối quan hệ ngoài đời thực. Điều này sau đó lại dẫn đến cảm giác cô đơn, buồn chán, tàn phá tinh thần của người dùng thế hệ Internet.
Các chuyên gia y tế cũng khuyến cáo về mối liên kết giữa hội chứng cô đơn với các bệnh tim, tiểu đường, chứng mất trí và hệ thống miễn dịch yếu. Những yếu tố này dự báo một kết quả bi quan về cái chết sớm.
Nhiều người cho rằng, cảm xúc con người bị chi phối bởi công nghệ như những lượt like trên Facebook, Instagram, Twitter nhưng không phải. Từ khi nhiếp ảnh phát triển, ảnh chân dung vượt ra khỏi lãnh địa của giới nhà giàu thì nhu cầu thể hiện bản thân của mọi người đã bắt đầu. Tiếp đến là công nghệ giúp lấp đầy sự im lặng bằng một nút vặn khi radio ra đời vào những năm 1920. Còn bây giờ là kỷ nguyên của YouTube, Netflix… khi mỗi người đều có thể giữ khư khư chiếc smartphone trên tay với kho ứng dụng khổng lồ mà không cần quan tâm đến sự hiển diện của những người xung quanh.
Công nghệ góp phần không nhỏ vào việc tạo ra các thiết bị, ứng dụng và dịch vụ mà người dùng không thể thoát ra. Họ thậm chí không có nhu cầu phòng thủ với chúng. Đó là lỗi của cả con người chứ không riêng công nghệ. Các công ty xây dựng nền tảng, thiết bị với mục đích lôi kéo thêm càng nhiều người càng tốt. Tuy nhiên, người dùng vẫn có quyền lựa chọn đặt smartphone xuống hoặc không.
Khi nào chúng ta có Mặt Trời nhân tạo?
Năng lượng nhiệt hạch dường như là một công nghệ quá tiềm năng và nhiều hứa hẹn, nhưng bao giờ thành sự thật?
Con người luôn đi tìm những nguồn năng lượng rẻ và sạch hơn, nhưng hai khái niệm đó thường không đi cùng với nhau. Năng lượng hóa thạch rẻ nhưng gây ô nhiễm, năng lượng tái tạo chi phí cao và hiệu quả không cao, còn năng lượng hạt nhân lại có rủi ro về phóng xạ.
Do đó, tìm kiếm một nguồn năng lượng vô tận với chi phí thấp luôn là giấc mơ của con người. Chúng ta đã có thể hình dung về giấc mơ đó với công nghệ phản ứng hợp hạch hay nhiệt hạch, cách tạo ra năng lượng của Mặt Trời, nhưng công nghệ này lại chưa sẵn sàng.
Phản ứng nhiệt hạch chính là phản ứng xảy ra ở trong lõi Mặt Trời, đem lại nguồn năng lượng cho Trái Đất hàng tỷ năm nay
Cách tạo ra năng lượng như Mặt Trời
Bên trong lõi Mặt Trời tồn tại một "lò phản ứng hạt nhân". Khác với nguyên lý của các lò hạt nhân hiện tại trên Trái Đất là sử dụng phản ứng phân hạch, một chuỗi phản ứng tách nguyên tử uranium ra để giải phóng năng lượng; quá trình diễn ra trong lõi Mặt Trời là phản ứng nhiệt hạch thực hiện quá trình ngược lại là tổng hợp các nguyên tử với nhau.
Khi 2 hạt nhân hydro hợp nhất với nhau để trở thành heli, chúng tạo ra một nguồn năng lượng khổng lồ. Quá trình này được gọi là phản ứng hợp hạch hay nhiệt hạch. Phản ứng này tạo ra toàn bộ năng lượng, bao gồm cả ánh sáng và nhiệt của Mặt Trời.
Các nhà khoa học sẽ phải tạo ra môi trường với nhiệt độ và áp suất cực lớn, đồng thời phải kiểm soát được đầu ra của năng lượng tạo ra từ phản ứng.
Nếu phản ứng có khả năng được thực hiện trong phòng thí nghiệm, nó có thể cung cấp điện năng tải cơ bản gần như vô hạn với lượng khí thải carbon gần như bằng không. Cách dễ nhất có thể thực hiện trong phòng thí nghiệm là phản ứng tổng hợp của hai đồng vị hydro khác nhau: deuterium và tritium. Sản phẩm của phản ứng là ion helium và neutron. Hầu hết nghiên cứu về phản ứng nhiệt hạch trước đây đều theo đuổi phản ứng này.
Phản ứng tổng hợp deuterium - tritium hoạt động hiệu quả nhất ở nhiệt độ 100.000.000 độ C. Các cuộn dây siêu dẫn được sử dụng để tạo ra một từ trường mạnh hơn khoảng 1 triệu lần so với từ trường của Trái Đất nhằm tạo ra các plasma. Vấn đề của các thí nghiệm phản ứng hợp hạch hiện tại là năng lượng để tạo ra và duy trì phản ứng còn lớn hơn năng lượng thu được.
Giai đoạn tiếp theo của nghiên cứu sẽ liên quan đến một thí nghiệm có tên gọi là ITER đang được xây dựng tại miền nam nước Pháp. Tại lò phản ứng ITER, nguồn nhiệt tạo ra từ phản ứng tương đương nhiệt độ cung cấp để kích hoạt. Về lý thuyết, điều này có thể tạo ra nguồn dư năng lượng. Trước đây, lò phản ứng hợp hạch hiệu quả nhất chỉ tạo ra năng lượng tương đương 67% năng lượng cung cấp.
Hướng đi mới của giới khoa học
Một số nghiên cứu được công bố gần đây cho thấy các nhà nghiên cứu đang tìm một hướng đi khác cho phản ứng nhiệt hạch. Nhà vật lý lý thuyết Heinrich Hora và các đồng nghiệp tại đại học New South Wales đã đăng ký bản quyền cho một công nghệ mới, thay vì sử dụng các đồng vị hydro lại kết hợp nguyên tử hydro và boron. Cụ thể, họ sẽ dùng tia laser cực mạnh để tạo từ trường và tia laser thứ hai để đốt nóng nhiên liệu hydro - boron nhằm mục đích đạt đến điểm đánh lửa nhiệt hạch.
Khi một hạt nhân hydro (một proton đơn) kết hợp với hạt nhân boron-11, nó sẽ tạo ra ba hạt nhân helium chứa nhiều năng lượng. So với phản ứng deuterium - tritium, cách này có ưu điểm khi không tạo ra bất kỳ hạt neutron nào. Lưu trữ neutron tạo ra từ phản ứng nhiệt hạch vốn vẫn là thách thức.
Thách thức của phản ứng kích hoạt bằng laser là độ chính xác và ổn định của tia laser.
Tuy nhiên, phản ứng hydro - boron rất khó kích hoạt. Giải pháp mà Hora đưa ra là sử dụng tia laser để đốt nóng một viên nhiên liệu nhỏ đến nhiệt độ đánh lửa và một tia laser khác để làm nóng cuộn dây kim loại nhằm tạo ra từ trường chứa plasma. Họ phải sử dụng các xung laser rất ngắn, chỉ vài nano giây. Từ trường của buồng phản ứng hydro - boson phải gấp khoảng 1.000 lần phản ứng deuterium - tritium.
Hora và các đồng nghiệp tuyên bố rằng quá trình của họ sẽ tạo ra một hiệu ứng "tuyết lở" trong viên nhiên liệu, điều đó có nghĩa là sẽ xảy ra nhiều phản ứng tổng hợp khác nhau hơn dự kiến. Nhóm nghiên cứu này nhận định họ có thể tạo ra lò phản ứng nhiệt hạch bền vững trong vòng 5 năm tới. Tuy nhiên, theo Science Alert thì dự báo này là hơi lạc quan.
Đã có nhiều cơ quan tổ chức trên thế giới cố gắng hoàn thành quá trình này. Chẳng hạn, Cơ quan Năng lượng Hoa Kỳ đã từng thử nghiệm bằng cách dùng 192 chùm tia laser chiếu vào một mục tiêu nhỏ và gần đạt đến điều kiện kích hoạt phản ứng. Tuy nhiên, họ chưa thể kiểm soát chính xác góc chiếu tia laser, độ ổn định của tia. Đây là những biến số khiến cho phản ứng chưa thể hoàn thành.
Nếu được đưa vào sử dụng, một nhà máy điện sẽ phải thực hiện chiếu tia laser 10 lần/giây. Trong khi đó, các thử nghiệm mới đạt tần suất nhiều nhất 2 lần/ngày.
Hiện nay, hy vọng lớn nhất để đạt tới năng lượng nhiệt hạch vẫn là dự án ITER, một nỗ lực hợp tác đa quốc gia. Lò phản ứng này có tổng kinh phí 22 tỷ USD, và hiện đã hoàn thành khoảng 65%. ITER sẽ đi vào hoạt động năm 2025.
Theo Zing
Viettel nỗ lực thực hiện sứ mệnh sáng tạo vì con người Với sứ mệnh "Sáng tạo vì con người", Viettel đã và đang nỗ lực thực hiện vai trò dẫn dắt trong lĩnh vực viễn thông và công nghệ thông tin (CNTT), tiên phong trong lĩnh vực công nghệ và công nghiệp, thực hiện chuyển đổi số và kiến tạo xã hội số ở Việt Nam. Viettel sẽ đẩy mạnh 3 ngành công nghiệp...