Con người tự do hay con người công cụ?
Giáo dục đang rẽ vào khúc ngoặt với đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện hệ thống giáo dục”. Vì thế, cần thiết phải nhìn nhận chân xác hơn những vấn đề lớn mang tính định hướng của giáo dục.
Một buổi học ngoại khóa của học sinh Trường tiểu học Lương Định Của, Q.3, TP.HCM tại Thảo cầm viên – Ảnh: Như Hùng
Một trong những vấn đề như vậy là: Tìm lối thoát cho giáo dục ở chỗ nào?
Tự do hay công cụ
Tuy có nhiều quan điểm khác nhau về con người với những phẩm tính cụ thể, nhưng về đại thể có thể chia thành hai trường phái lớn: con người công cụ và con người tự do.
Con người công cụ là con người không có hoặc có rất ít bản sắc cá nhân, được coi như một bộ phận nhỏ bé trong cả một hệ thống lớn, hướng đến một mục tiêu lớn, thường là rất trừu tượng. Vì thế, cách đào tạo chủ yếu là nhồi nhét một chiều. Phương pháp đào tạo lấy giáo viên và giáo trình làm trung tâm, dạy và học theo kiểu đọc chép. Không có phản biện, không có sáng tạo, không có lật ngược vấn đề.
Các nội dung đào tạo cũng không cần phải là kiến thức khả tín, mà có thể cài cấy các nội dung ngoài lề, thường là tuyên truyền một chiều và thường nhấn mạnh vào đạo đức, trách nhiệm… thay vì khai mở khả năng phản biện, xử lý thông tin, tìm hiểu thế giới để tìm ra sự thật.
“Nếu nền giáo dục muốn có những con người công cụ thì không cần phải đổi mới toàn diện, triệt để, vì hệ thống hiện tại đã đáp ứng được những tiêu chuẩn này”
Ngược lại với con người công cụ là con người tự do, theo nghĩa họ được tự do lựa chọn các giá trị mà mình theo đuổi, hành động mà mình thấy phù hợp. Trong giáo dục thì đó là tự do học thuật, theo nghĩa: tự do học, tự do dạy và tự do nghiên cứu.
Video đang HOT
Tất nhiên khi đã tự do lựa chọn thì anh ta sẽ phải chịu trách nhiệm với lựa chọn của mình. Vì thế con người tự do không chỉ tự định đoạt số phận của mình mà còn tự chịu trách nhiệm với chính nó nữa.
Cũng nhờ đó mà con người tìm ra ý nghĩa đời sống của mình, vì họ được sống thật với điều họ muốn, cái mà họ theo đuổi, thay vì sống theo các tiêu chuẩn áp đặt từ bên ngoài, dù các tiêu chuẩn đó được truyền tải trong hệ thống giáo dục chính quy đi chăng nữa.
Chỉ bằng cách đó con người mới có khả năng phát triển tốt nhất phù hợp các đặc điểm sinh học và văn hóa của riêng mình, và do đó hoàn thiện được mình ở mức cao nhất có thể. Thông qua đó, anh ta sẽ đóng góp cho xã hội ở mức lớn nhất có thể.
Nếu là con người tự do, anh ta cũng sẽ có xu hướng bảo vệ tự do của mình và tôn trọng tự do của người khác. Đây là một sự tương tác kiểu “có đi có lại”, vì chỉ có bằng cách đó tự do của anh mới được người khác tôn trọng. Trong trường hợp có xung đột, hai bên sẽ bàn thảo và thỏa hiệp để có giải pháp chung.
Bằng cách đó, gốc rễ của một xã hội văn minh được hình thành. Ở đó, con người cá nhân được tôn trọng và bảo vệ. Giải pháp thì được tìm thấy thông qua thảo luận. Hành vi được giám hộ bởi thỏa thuận, hoặc rộng hơn là pháp luật. Con người công dân được hình thành một cách tự động.
Từ đây con người văn minh, độc lập và sáng tạo – nguồn gốc của phát triển – sẽ được hình thành. Tập hợp những con người này sẽ tạo ra một xã hội văn minh, độc lập và sáng tạo, tức một xã hội phát triển. Bằng cách đó, chính giáo dục chứ không phải cái gì khác, đã trực tiếp định hình sự phát triển của một dân tộc.
Cần tạo ra con người tự do
Nếu hệ thống giáo dục được thiết kế để tạo ra con người tự do thì ngay lập tức toàn bộ cơ cấu và cơ chế của nó sẽ được thiết kế sao cho phù hợp với mục đích này.
Có thể hình dung ngay những điều hiển nhiên sau: thay vì lấy thầy cô và việc dạy làm trung tâm, lớp học sẽ xoay quanh học trò và bản thân việc học. Các em sẽ được tự do thảo luận và phản biện giáo viên. Người dạy khi đó chỉ còn là người hướng dẫn việc học, thay vì là hiện thân của chân lý.
Cũng sẽ không còn một bộ sách giáo khoa duy nhất, thay vào đó là nhiều bộ sách giáo khoa trên cơ sở một khung chương trình chung. Các giáo viên sẽ được tự do chọn không chỉ sách giáo khoa mà còn nội dung bài giảng sao cho phù hợp và hiệu quả nhất. Tư duy phản biện và sáng tạo tất nhiên sẽ được phát triển.
Giáo dục khi đó sẽ hướng tới từng cá thể, có bản sắc riêng, hoàn thiện tốt nhất năng lực của riêng mình, thay vì tạo ra những con người giống hệt nhau trong nhận thức và cá tính.
Đây chính là sự đổi mới toàn diện, triệt để chương trình giáo dục hiện hành. Tất cả đều xuất phát từ một điểm duy nhất: tìm ra lối thoát cho giáo dục từ việc hình dung về sản phẩm đầu ra của hệ thống giáo dục. Cụ thể là hình dung về con người mà nền giáo dục hướng tới.
Do đó, nếu thực lòng muốn đổi mới giáo dục thì không còn cách nào khác là thay đổi đích đến của giáo dục: giáo dục cần tạo ra con người tự do, chứ không phải con người công cụ.
Chính việc hình dung rõ ràng về đích đến này sẽ quyết định triết lý giáo dục nào được sử dụng. Vì phát biểu về đích đến chính là phát biểu về triết lý giáo dục, thứ mà chúng ta vẫn tìm kiếm suốt mấy chục năm qua.
Chỉ khi nào chúng ta làm rõ được điều này mới có hi vọng đổi mới giáo dục một cách toàn diện, triệt để như mong đợi.
Theo Tuoitre
Cốt yếu vẫn là đổi mới chương trình
"Chuyển từ quá trình giao duc chủ yếu truyền thụ kiến thức sang quá trình phát triển năng lực, phẩm chất của người học" là mục tiêu PGS Đỗ Ngọc Thống, thường trực ban soạn thảo đổi mới chương trình - sach giao khoa sau năm 2015, cho rằng mang tính cốt yếu.
Ông Đỗ Ngọc Thống - Ảnh: V.H
Trao đổi với Tuổi Trẻ, PGS Đỗ Ngọc Thống cho biết: "Việc chuyển từ quá trình chủ yếu truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực, phẩm chất người học chi phối tất cả các khâu từ biên soạn nội dung chương trình tới tổ chức dạy học, áp dụng phương pháp dạy học mới, đổi mới kiểm tra, đánh giá, cách thức ra đề thi, cách thức tổ chức các kỳ thi lớn...
* Từ mục tiêu của đề án là "chuyển từ truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực, phẩm chất", tới đây những công việc tiếp theo để hiện thực hóa mục tiêu này sẽ thế nào?
- Với hướng chú trọng phát triển năng lực, phẩm chất, nội dung chương trình - sách giáo khoa (SGK) sẽ không thể hàn lâm, cao siêu, xa rời thực tế đời sống. Nói như thế không có nghĩa chương trình - SGK sau năm 2015 sẽ dễ hơn, dẫn tới việc "hạ cấp trình độ phổ thông" so với hiện nay mà nội dung chương trình - SGK sẽ chỉ chọn lọc những kiến thức cơ bản nhất, tinh túy, gần gũi nhất với người học, với những gì diễn ra trong đời sống. Nhưng những kiến thức cơ bản, gần gũi đó phải đóng vai trò hình thành năng lực cho người học như năng lực tư duy, sáng tạo, năng lực giao tiếp, giải quyết vấn đề... Sẽ hạn chế tối đa việc đưa vào chương trình - SGK những kiến thức chưa cần thiết đối với người học ở bậc phổ thông.
Thay đổi kế tiếp là phương pháp dạy học, cách thức tổ chức dạy học. Trước đây, giáo viên phổ biến việc dạy theo kiểu truyền giảng, đọc - chép, nhưng với chương trình mới giáo viên buộc phải thay đổi cách dạy học. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, gợi mở để học sinh tự tìm hiểu, tự giải quyết vấn đề để có được kiến thức... Quá trình đó sẽ hình thành năng lực cho người học như khả năng tư duy, khả năng tìm hiểu, thu thập tài liệu, khả năng phân tích, tổng hợp dữ liệu đã có, cách làm việc nhóm, cách trình bày hiểu biết của mình... Quá trình tự học, suy nghĩ, thảo luận, bày tỏ chính kiến cũng giúp học sinh có được những hiểu biết, tình cảm nhân văn, nhất là ở những bài học thuộc lĩnh vực xã hội. Bộ Giáo dục - đào tạo cũng đã nghiên cứu, triển khai thử nghiệm nhiều cách thức dạy học và sẽ áp dụng một cách linh hoạt, đa dạng ở chương trình mới.
Đề thi, cách thức kiểm tra, thi cử cũng sẽ thay đổi. Việc đánh giá học sinh sẽ diễn ra trong cả quá trình, tới thi hết môn, thi cuối cấp. Căn cứ đánh giá sẽ không chỉ là kết quả điểm thi, kiểm tra mà qua thái độ, ứng xử của học sinh trong quá trình học, làm việc nhóm, làm bài kiểm tra theo chuyên đề, làm thí nghiệm, thực hành trong hoạt động của tập thể. Thay đổi đánh giá, thi cử cũng thể hiện ở nội dung đề thi, đề kiểm tra không còn những câu học thuộc lòng thuần túy. Đề thi, kiểm tra sẽ không đòi hỏi học sinh nhớ được gì mà vận dụng được gì, làm được gì với những kiến thức đã có.
* Trong phần mục tiêu của đề án đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT có đưa ra mục tiêu "thực học, thực nghiệp", việc đẩy mạnh dạy học phân hóa ở bậc THPT có phải nhằm vào mục tiêu này không, thưa ông?
- Theo dự thảo thì lớp 11, 12 sẽ chỉ còn ba môn bắt buộc và ba môn tự chọn bắt buộc. Có nghĩa ngoài ba môn được quy định cứng, học sinh sẽ bắt buộc phải chọn ba môn trong số các môn học khác. Ngoài sáu môn học này, tùy theo nhu cầu, học sinh có thể chọn học thêm những chủ đề nâng cao khác nhau. Những chủ đề này học sinh có thể chọn học, có thể không chọn, có thể chọn nhiều chủ đề, có thể chỉ chọn một chủ đề. Những chủ đề nâng cao này được xây dựng trên cơ sở tham khảo yêu cầu đào tạo của các ngành, nghề hiện nay.
Ban soạn thảo đã đề nghị một số cơ sở đào tạo nghề nghiệp, các trường ĐH-CĐ gửi yêu cầu về kiến thức, kỹ năng đối với các ngành nghề đào tạo của họ để chúng tôi xây dựng chuyên đề nâng cao. Đây chính là cụ thể hóa mục tiêu "thực học, thực nghiệp". Người học ngoài kiến thức, kỹ năng cơ bản, sẽ chủ động chọn cho mình những chủ đề cần cho định hướng nghề nghiệp tương lai. Các trường ĐH-CĐ, dạy nghề sau này có thể tùy theo yêu cầu đặc thù của mình để đưa ra yêu cầu xét tuyển. Ví dụ lấy kết quả thi tốt nghiệp THPT, xét hồ sơ của học sinh ở bậc THPT (trong đó có kết quả đánh giá quá trình) hoặc có thể xét thêm kết quả học tập các chuyên đề nâng cao. Việc học các chuyên đề nâng cao cũng giúp học sinh có đủ năng lực để dự thi thêm kỳ tuyển sinh riêng của mỗi trường tự tổ chức sau này. Với hướng này, học sinh THPT sẽ không phải học quá chuyên sâu những kiến thức không cần cho nghề nghiệp của mình.
* Hiện nay theo phản ảnh của giáo giới, có quá nhiều quy định lạc hậu, cứng nhắc đang kìm hãm tính sáng tạo, chủ động và tâm huyết của nhà giáo. Cụ thể có nơi đưa ra tới 24 loại sổ sách nhà giáo phải chấp hành. Theo ông, để mục tiêu của đề án được đội ngũ nhà giáo thực hiện triệt để, cần phải làm gì để tháo gỡ cản trở nói trên?
- Đúng là hiện nay có những quy định lạc hậu, cứng nhắc, trong đó có cả những quy định của ngành và quy định do các địa phương tự đặt ra. Vì thế tới đây sẽ phải rà soát toàn bộ những quy định đã có, bỏ đi những gì lạc hậu, mang tính cản trở đổi mới. Tuy nhiên, nói tới việc này cũng phải nói thêm là trong giáo giới có một bộ phận thụ động, ngại đổi mới, thích "cầm tay chỉ việc" nên khi được áp dụng cơ chế tự do, sáng tạo hơn thì lúng túng, không biết làm thế nào. Vì thế thay đổi bất cập trên không chỉ từ các cấp quản lý mà còn cần từ chính giáo viên.
Không đợi đề án thông qua, ngay trong năm học này Bộ Giáo dục - đào tạo đã có những chỉ đạo nhằm khuyến khích sự sáng tạo, chủ động của thầy, cô giáo. Ví dụ cho phép các nhà trường tự xây dựng kế hoạch dạy học, cho phép thầy, cô giáo chủ động xây dựng kế hoạch dạy học và kết hợp các phương pháp dạy học của mình.
Theo Tuoitre
Bắt đầu từ những cái gần gũi nhất Ngay sau khi Tuôi Tre mơ diên đan "Chân hưng giao duc", đông đao ban đoc, chuyên gia, nha quan lý, thầy cô giáo... gưi y kiên, gop y đê nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đi vao cuôc sông. TS Nguyễn Tùng Lâm - Ảnh: Nguyễn Khánh - Tâm lý con người nói chung...