‘Cô thương các con lắm nhưng cũng bất lực’
Hàng ngày, nhiều học sinh ở xã An Lương (Yên Bái) vượt hiểm nguy, trèo đèo lội suối đến trường, cố gắng đi học dù cuộc sống khó khăn thiếu thốn.
Mới đây, lời kêu gọi “Cô thương các con lắm nhưng cũng bất lực” của cô Mừng, giáo viên trường Phổ thông Dân tộc Bán trú THCS An Lương ở huyện Văn Chấn, Yên Bái, gửi tới một nhóm thiện nguyện khiến không ít người nghẹn lòng.
“Những học sinh nhà ở tận bản cao, đến trường đã là một nỗ lực lớn của gia đình và bản thân rồi. Giờ ngồi học mà không có sách, em sợ các con không theo nổi cái chữ mất”, cô Mừng viết.
Trường THCS An Lương có 320 học sinh thì gần 250 em thuộc diện hộ nghèo. Nhà trường phải thường xuyên đến từng thôn, bản vận động học sinh đi học và hỗ trợ bằng cách cho các em mượn sách. Tuy nhiên, phần lớn sách đều được cấp hoặc nhận từ các tổ chức thiện nguyện từ năm 2007 nên đã cũ, hỏng.
Thầy cô phải vận động người dân mua sách cho con. Nhưng nhiều gia đình còn không lo nổi ăn, mặc, gửi con đến trường đã là nỗ lực lớn, lấy đâu ra tiền mua sách vở.
Em Mùa A Củ sinh ra trong gia đình người Mông nghèo thông Khe Cảnh. 9 năm đến trường, Củ phải vượt khó khăn, nguy hiểm để tìm cái chữ. Tài sản đáng giá của gia đình vùng cao có 5 anh chị em này chỉ là mái nhà tranh vách nứa lụp xụp, hai tấm phản làm giường cùng vài ba cái nồi. Cha mẹ em phải nỗ lực rất nhiều để con có thể đi học.
Nhà trường muốn Củ ở bán trú để bớt vất vả nhưng em từ chối vì muốn ở nhà hỗ trợ bố mẹ chăm em, làm công việc đồng áng.
Đường đến trường cheo leo của học sinh trường THCS An Lương. Ảnh: Nghiêm Anh Hải.
Em Lò Trí Thức, học sinh lớp 6, cũng khó khăn không kém khi cả gia đình sinh sống trong ngôi nhà gỗ tự dựng liêu xiêu, cuộc sống phụ thuộc vào nguồn thu nhập ít ỏi từ vài sào ruộng.
Ngoài giờ học, các em đều chăm chỉ, phụ giúp gia đình từ việc chăm sóc em, làm công việc đồng áng hay làm thuê để kiếm ít tiền mua sách vở. Nhiều em khó khăn, thuộc diện ở bán trú nhưng vẫn chịu khó đi về mỗi ngày để làm việc, giảm bớt gánh nặng kinh tế cho bố mẹ. Cuộc sống dù khó khăn đến mấy, trẻ em nghèo vùng cao vẫn khao khát đến trường, học thêm kiến thức với hy vọng tương lai bớt vất vả.
Tuy nhiên, ước mơ đến trường của Củ và Thức cũng như một số học sinh trường Phổ thông Dân tộc Bán trú THCS An Lương sắp tắt khi năm học mới đã bắt đầu một tuần mà các em vẫn chưa có sách giáo khoa.
Video đang HOT
Nhiều giáo viên thương học trò, tìm cách giúp đỡ nhưng chỉ như muối bỏ biển vì nhiều em có hoàn cảnh khó khăn quá. Thầy Đinh Văn Lập, Hiệu trưởng trường THCS An Lương, kể hàng ngày, các em phải đi bộ khoảng 7 km – 10 km, thậm chí 15 km, vượt qua những đoạn đường đèo cheo leo, lầy lội. Vào mùa nước lên, con suối Thia rộng tầm 100 m trở thành ác mộng của học sinh trường THCS An Lương.
“Ngày mưa gió, các em đi học bằng mảng, men theo sợi dây không mấy chắc chắn để sang bờ bên kia. Những thiếu niên 12, 13 tuổi đối mặt nguy cơ bị dòng nước xiết cuốn trôi nếu chẳng may dây đứt. Học sinh vắng học nhiều, nhà trường cũng không dám vận động các em đến trường vì tính mạng phải được đặt lên hàng đầu”, thầy Lập chia sẻ.
Học sinh bán trú đỡ vất vả hơn nhưng các em cũng phải sống trong căn nhà dựng tạm và hầu như chẳng có gì ngoài một chỗ che mưa chắn gió và tấm phản đơn sơ để nghỉ ngơi lúc mệt mỏi.
Thầy cho biết thêm, trường được xây từ năm 2005, có 6 phòng học kiên cố nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu học tập và giảng dạy. Giáo viên phải dựng lớp học tạm, mượn bàn ghế từ ủy ban nhân dân xã và các hộ dân xung quanh.
Mấy năm qua, thầy trò trường An Lương cùng hỗ trợ, động viên nhau vượt qua khó khăn. Nhìn các em đến trường với chỉ vài bộ quần áo, đông cũng như hè, giáo viên không khỏi chạnh lòng.
Gia đình khó khăn, đường đến trường nguy hiểm khiến việc học của học sinh bị gián đoạn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả học tập. Tuy nhiên, dù hành trình tìm chữ gian nan, khoảng 45% – 75% học sinh tiếp tục học lên.
“Phần lớn học sinh trường là người dân tộc Mông, Dao và Tày. Các em rất hòa thuận và hiếu học. Tôi cũng không mong gì nhiều, chỉ hy vọng mọi người giúp đỡ để các em có sách giáo khoa tiếp tục học tập”, vị hiệu trưởng nói.
Thầy chia sẻ thêm, những đóng góp của các nhà hảo tâm còn là lời an ủi, động viên trẻ em vùng cao tiếp tục cố gắng, để các em không cảm thấy bị bỏ quên hay đơn độc trên hành trình tìm chữ.
Theo Zing
Thầy giáo bật khóc trên đường đến trường
Các thầy ở xã vùng biên Thượng Trạch (Bố Trạch, Quảng Bình) vẫn đùa, là học sinh tiểu học nhưng nếu muốn được gặp cô giáo, các em phải chờ đến THCS. Vì ở đây, thầy giáo là mẹ hiền.
Học sinh ở Noồng cũ.
Xã vùng biên Thượng Trạch hầu như tách biệt với bên ngoài, là nơi sinh sống của 18 bản làng người dân tộc Ma Coong.
Địa bàn cách trở, có những bản phải băng rừng mấy tiếng đồng hồ mới đến được, có bản ở cách đường 20 Quyết Thắng cả chục cây số nên đời sống bà con vô cùng vất vả.
Cả xã có hai trường tiểu học nhưng chỉ có một vài bản ở gần trung tâm xã là học sinh được học tập trung tại trường số 1. Các bản còn lại đều có thầy giáo về cắm bản để dạy chữ cho các em.
Thầy Nguyễn Văn Thăng đã có hơn 10 năm gắn bó với học sinh ở đây .
Trường học chỉ có thầy
"Trường có tất cả 38 cán bộ, giáo viên nhưng chỉ có 3 cán bộ nữ làm những công việc văn phòng. 35 người còn lại đều là thầy giáo, mỗi bản 2 người, cùng ăn cùng ở với đồng bào để dạy chữ cho các em tiểu học", thầy Võ Anh Tuân, Hiệu trưởng Trường Tiểu học số 2 Thượng Trạch cho biết.
Ở các bản làng xa xôi, học sinh không được học mầm non vì không đủ điều kiện mở lớp, điều kiện đi lại, ăn ở quá vất vả nên chỉ có các thầy cắm bản. nói vui như thầy Đồ Hồng Thái, giáo viên tại bản 51 thì phải đến cấp 2 các em mới được học cùng cô giáo.
Các em học sinh ở đây chỉ bắt đầu được học tiếng Kinh khi vào lớp 1. Để dạy được, thầy cũng phải học tiếng nói của đồng bào Ma Coong, không chỉ trò mà thầy cũng có thêm "ngoại ngữ". Không chỉ dạy chữ, nhạc, họa thầy cũng dạy...nốt.
"Trường có tất cả 21 lớp, trong đó chỉ có 1 lớp đơn ở bản Cờ Đỏ, 13 lớp ghép nhóm hai trình độ, 6 lớp ghép nhóm ba trình độ, 1 lớp ghép nhóm bốn trình độ", thầy Tuân cho biết thêm.
Lớp ghép 4 trình độ ở bản Noồng cũ do thầy Nguyễn Văn Lai đảm nhiệm. có tất cả 7 em học sinh từ lớp 2 đến lớp 5. Cứ đến giờ học, thầy lại chia bảng làm đôi để dạy cho các em học.
Và những lần các thầy phải khóc
Trước khi lên đây, có thầy đã có gia đình nhưng có thầy thì chưa. Năm ở bản này, năm khác lại luân chuyển qua bản khác, điện thắp sáng không, sóng điện thoại bản có bản không nên tuổi thanh xuân của một vài người cũng đành ở lại với núi rừng.
Khoảng bốn năm trở lại đây, con đường 20 Quyết Thắng mới thông suốt, trước đó cực lắm. Đường đất vốn đã ngoằn nghèo, dốc dựng đứng, mỗi khi mưa xuống lại lầy lội, sụt lún, xe ga lên lại xoay ngược lại không thể nào đi nổi.
Các em học sinh ở bản Bụt sau giờ học .
"Năm 2008, tôi một mình vác ba lô lên trường, khi đến cây số 54 thì gặp mưa, đường quá lầy lội nên xe bị lún xuống sâu không sao kéo lên được. Nói các chị đừng cười chứ lúc đó tôi chỉ biết ngồi khóc vì lực bất tòng tâm.
Khóc xong vẫn không kéo được xe lên nên phải ngồi chờ có người đi qua rồi nhờ họ kéo lên giúp. Hồi đó người qua lại cũng "hiếm" lắm nên đi từ sáng mà phải tối mịt tôi mới lên đến nơi", thầy Đỗ Hồng Thái nhớ lại.
Là thầy giáo cắm bản hơn 10 năm, thầy Nguyễn Văn Thăng nhớ lại những ngày đầu lên đây. Nhớ nhà, nhớ vợ con khiến thầy nhiều lúc muốn bỏ về. Nhưng rồi những ánh mắt trong veo của học sinh lại níu chân thầy lại. Ngót ngét cũng hơn chục năm trời, nếu không yêu nghề thì làm sao trụ được.
Hiện thầy dạy tại bản Noồng mới: " Ở đây không có sóng điện thoại, chỉ lâu lâu mới tìm được điểm rơi, tôi và một thầy nữa cắt cái chai nhựa đóng vào tường để hứng sóng. Mới đầu không quen, cứ nghe chuông báo cuộc gọi, mừng quá chạy lại nhấc lên là kiểu gì cũng mất sóng. Giờ quen rồi nên điện thoại lúc nào cũng cắm tai nghe, có chuông là chỉ việc lại ngồi đó đeo tai nghe vào", thầy Thăng vui vẻ kể.
Điều kiện sinh hoạt đã khổ, đau ốm còn khổ hơn bội phần. "Năm 2010, tôi dạy ở Noồng đột nhiên bị đau bụng dữ dội, đi không nổi mà trời lại đang mưa lớn, nước đầu nguồn đổ về khiến con đường độc đạo băng suối về xuôi bị ngăn cách.
Không còn cách nào khác, tôi được ba đồng nghiệp dẫn vượt sông,vì quá đau nên vừa đi vừa khóc, cũng may mà không bị nước cuốn trôi. Lần đó tôi bị viêm dạ dày cấp tính"- thầy Hồ Văn Minh góp chuyện.
Khó khăn là thế nhưng thấy các em học sinh đến lớp đều, đọc thông viết thạo là niềm động viên vô cùng lớn cho các thầy. "Còn sức, còn được phân công tôi vẫn ở lại để dạy những thế hệ tiếp theo", thầy Minh chia sẻ.
Theo Hải Sâm/Vietnamnet
Chuyện hai vợ chồng trẻ 8 năm gieo 'niềm tin' cho học sinh "Học không chỉ để làm ông này bà kia, mà học để chúng ta có thể thêm hiểu biết về thế giới rộng lớn này và làm chủ bản thân mình" - hai vợ chồng thầy May đưa ra lời khuyên. Trước ngày mở đường, điểm trường tiểu học Thăm Thẩm (đóng trên địa bàn xã Nhôn Mai, huyện Tương Dương, Nghệ An)...