Có nên kiểm tra toàn cơ thể tầm soát ung thư?
Chụp chiếu, xét nghiệm toàn bộ cơ thể tìm ung thư gây tốn kém và không hiệu quả, có thể khiến hoang mang hoặc yên tâm giả tạo, theo các bác sĩ.
Tầm soát ung thư là phương pháp phát hiện sớm bệnh ung thư trước khi triệu chứng lâm sàng xuất hiện. Bác sĩ sẽ hỏi tiền sử bệnh cá nhân, gia đình đồng thời thăm khám lâm sàng và làm một số xét nghiệm. Từ đó, người dân có kế hoạch chăm sóc, theo dõi sức khỏe và chuẩn bị định hướng điều trị (nếu mắc), giúp tăng cơ hội khỏi bệnh, tăng hiệu quả điều trị, giảm tỷ lệ tử vong, giảm chi phí chữa bệnh so với việc phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn.
“Tuy nhiên, không ai tự dưng đi kiểm tra chụp chiếu, làm xét nghiệm tất cả các bộ phận trên cơ thể để tìm bệnh ung thư. Điều này gây tốn kém và không hiệu quả”, bác sĩ Phạm Văn Thái (Phó giám đốc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai) cho biết. Hơn nữa, một số loại bệnh ung thư trong một số trường hợp không có biểu hiện bất thường trên các các phương tiện chẩn đoán khi bệnh ở giai đoạn sớm.
Tầm soát ung thư thường áp dụng trên những đối tượng nguy cơ cao mặc bệnh ung thư nào đó, thường liên quan đến những nhóm tuổi nhất định, ví dụ: ung thư vú ở phụ nữ trên 40 tuổi hoặc người có nguy cơ ung thư di truyền.
Cùng quan điểm, bác sĩ Thân Văn Thịnh, Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Ung bướu Hà Nội, nhận định nhiều người đi khám tầm soát ung thư với tâm lý lo lắng, sợ hãi nên yêu cầu được xét nghiệm tổng thể. Tuy nhiên, việc kiểm tra chụp chiếu hay làm xét nghiệm tất cả bộ phận trên cơ thể để tìm ung thư không hiệu quả.
“Thậm chí, nhiều gói tầm soát ung thư còn mang tính kinh doanh, không có lợi cho người được tầm soát. Xét nghiệm tràn lan còn gây tâm lý hoang mang hoặc yên tâm giả tạo cho người xét nghiệm”, bác sĩ Thịnh nói.
Để khám sàng lọc ung thư, tùy theo triệu chứng lâm sàng, tiền sử gia đình của người bệnh mà bác sĩ sẽ chỉ định xét nghiệm phù hợp và cần thiết như xét nghiệm máu, nội soi, siêu âm… Khi có dấu hiệu nghi ngờ sẽ tiến hành chụp CT, chụp MRI, chụp PET/CT… và nhiều xét nghiệm chuyên sâu khác. Các bác sĩ sẽ dựa vào những kết quả này để đưa ra kết quả chẩn đoán cuối cùng.
Để có kết quả chẩn đoán bệnh tốt, người dân nên lựa chọn cơ sở y tế uy tín, chất lượng chuyên môn tốt để đảm bảo việc tầm soát hiệu quả tốt nhất. Ảnh: Bác sĩ cung cấp
Video đang HOT
Theo bác sĩ, người dân nên khám sàng lọc bệnh ung thư phổ biến như ung thư vú, phổi, gan, dạ dày…
Ung thư vú và ung thư cổ tử cung là hai loại phổ biến gây tử vong hàng đầu ở nữ giới. Theo Tổ chức ghi nhận Ung thư thế giới (GLOBOCAN 2018), tại Việt Nam, ung thư vú đứng hàng đầu về tỷ lệ mắc ở nữ giới với 15.229 ca (chiếm 20,6%) và đứng thứ 4 về tỷ lệ tử vong với 6.113 ca (chiếm 13,87%). Ung thư cổ tử cung đứng thứ 7 về tỷ lệ mắc mới ở nữ giới với 4.177 ca (chiếm 5,65%) và đứng thứ 7 về tỷ lệ tử vong với 2.420 ca (chiếm 5,50%).
Đối với ung thư vú, yếu tố nổi bật nhất là tiền sử gia đình có người mắc bệnh này. Ngoài ra có sự liên quan tới đột biến gene, có kinh lần đầu tiên sớm, sinh con đầu lòng muộn. Tự khám vú là phương pháp ít tốn kém và vô hại, có thể thực hiện mỗi tháng một lần và khám sau khi sạch kinh khoảng 5 ngày. Phụ nữ tự khám vú thường xuyên có thể phát hiện bệnh ngay từ khi khối u còn nhỏ. Phụ nữ trên 40 tuổi được khuyến cáo nên chụp nhũ ảnh mỗi năm một lần.
Trong khi đó, phương pháp chính trong sàng lọc ung thư cổ tử cung là Pap test – lấy tế bào vùng cổ tử cung bằng que (Pap smear) hoặc qua bàn chải nhỏ (Thinprep). Mẫu bệnh phẩm sẽ được kiểm tra dưới kính hiển vi và đánh giá sự bất thường của tế bào cổ tử cung. Nếu phát hiện có tế bào bất thường, bệnh nhân được soi cổ tử cung và sinh thiết giúp chẩn đoán bệnh ở giai đoạn sớm.
Một số bệnh ung thư khác như ung thư phổi có thể chụp cắt lớp vi tính liều thấp (low-dose CT scan), ung thư gan cần phối hợp siêu âm ổ bụng và bộ ba xét nghiệm máu AFP, AFP-L3, PIVKA II.
Ung thư dạ dày thường không có biểu hiện rõ ràng, dễ gây nhầm lẫn với những bệnh lý thông thường khác. Khi xuất hiện những dấu hiệu rõ ràng thì cũng là lúc bệnh tiến triển nặng. Bạn nên sàng lọc ung thư dạ dày bằng nội soi dạ dày định kỳ để phát hiện những tổn thương ác tính ở giai đoạn rất sớm.
Tầm soát ung thư có chính xác hay không là băn khoăn của rất nhiều người. Hiện, y học ngày càng phát triển với những kỹ thuật máy móc hiện đại; độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính xác của các kỹ thuật chẩn đoán được nâng cao. Tuy nhiên, rất khó có một kỹ thuật đảm bảo độ chính xác 100%. Vì vậy, để có kết quả chẩn đoán bệnh tốt, người dân nên lựa chọn cơ sở y tế uy tín, chất lượng chuyên môn cao giúp việc tầm soát hiệu quả.
Chuyên gia cảnh báo 6 nhóm đối tượng có nguy cơ mắc ung thư dạ dày
Ung thư dạ dày có thể gặp ở bất cứ ai, ở bất cứ lứa tuổi nào. Tuy nhiên, khi có các yếu tố dưới đây, nguy cơ mắc căn bệnh này sẽ tăng lên.
Bệnh viện K cho biết, ung thư dạ dày là căn bệnh thường gặp trong các bệnh ung thư đường tiêu hóa, những năm gần đây, bệnh ung thư dạ dày có xu hướng trẻ hóa và tăng lên.
Đáng nói, các trường hợp mắc ung thư dạ dày được phát hiện phần lớn ở giai đoạn muộn, do người dân chưa có thói quen tầm soát ung thư định kỳ.
Tại Việt Nam, năm 2020, ung thư dạ dày đứng hàng thứ 4 trong các bệnh ung thư thường gặp với 17.902 ca mắc mới và 14.615 ca tử vong, cứ 100.000 sẽ có 24,64 người mắc ung thư dạ dày.
Ung thư dạ dày có thể gặp ở bất cứ ai, ở bất cứ lứa tuổi nào. Tuy nhiên, khi có các yếu tố dưới đây, nguy cơ mắc căn bệnh này sẽ tăng lên:
1. Trong gia đình có tiền sử mắc ung thư dạ dày
Những người có người thân trong gia đình mắc bệnh ung thư dạ dày, như ông bà, bố mẹ, anh chị em ruột từng mắc ung thư dạ dày. Theo thống kê, những người trong gia đình có người mắc bệnh ung thư dạ dày có nguy cơ mắc ung thư dạ dày cao gấp 4 lần so với những người khác.
2. Người mắc bệnh viêm teo niêm mạc dạ dày
Những người có viêm teo niêm mạc dạ dày, viêm teo thân vị hoặc toàn bộ niêm mạc đều có nguy cơ cao mắc ung thư dạ dày. Hay những người bị viêm dạ dày mạn tính có nhiều dị sản ruột có nguy cơ phát triển thành ung thư dạ dày cao hơn.
3. Hội chứng đa polyp tuyến
Những người bị hội chứng đa polyp tuyến có tính chất gia đình, những polip này rất dễ trở thành ác tính.
4. Người có tiền sử nhiễm HP dạ dày
Các nghiên cứu cho thấy có từ 35 - 90% bệnh nhân ung thư biểu mô dạ dày có liên quan tới nhiễm khuẩn HP.
5. Người bị cắt dạ dày
Những người bị cắt dạ dày, dịch mật trào ngược gây viêm teo niêm mạc dạ dày mạn tiến triển thành ung thư dạ dày.
6. Người ăn nhiều dưa muối, thịt hun khói, thịt nướng
Những người có thói quen ăn uống các thực phẩm chứa nhiều nitrat như ngũ cốc mốc, thịt hun khói, thực phẩm ướp nhiều muối. Khi vào dạ dày, các nitrat sẽ phản ứng với các amin tạo thành các nitrosamine, làm tăng nguy cơ gây ung thư.
Trong thực tế, nhiều người cứ đau bụng, đầy hơi, khó tiêu họ nghĩ ngay đau dạ dày, tự mua vài liều thuốc về uống, thấy đỡ rồi thôi chứ không có ý thức đi khám. Hoặc giả đi khám nhưng lại ngại nội soi dạ dày. Trong khi đó, dạ dày là một tạng rỗng, có thể hình dung nó như một quả bóng, vì thế khám bên ngoài sẽ không thể thấy được những tổn thương bên trong. Việc siêu âm, chụp dạ dày có cản quang cũng chỉ phát hiện ở một chừng mực nhất định, khi bệnh đã ở giai đoạn muộn do khối u quá lớn.
Để chẩn đoán ung thư dạ dày là phải làm nội soi để có thể nhìn thấy tổn thương và lấy mẫu tế bào để sinh thiết, làm các xét nghiệm khác. Phương pháp nội soi không chỉ phát hiện mà còn là phương pháp điều trị. Như với người mắc bệnh ở giai đoạn sớm, người ta có thể qua nội soi hớt phần niêm mạc bị ung thư và giữ nguyên dạ dày, bệnh nhân sống thêm vài năm. Trong khi đó, ở giai đoạn muộn bệnh nhân vừa phải phẫu thuật, xạ trị mà cơ hội sống vẫn rất khó khăn. Vì thế, việc nội soi định kỳ ở người có tiền sử đau dạ dày, nhiễm vi khuẩn HP là vô cùng quan trọng.
Trên thế giới nhiều nước thực hiện chương trình tầm soát toàn quốc gia, áp dụng cho những người từ 40 tuổi trở lên thực hiện soi dạ dày 2 năm một lần. Tại Việt Nam, chuyên gia khuyến cáo với những người có bệnh lý đường tiêu hóa cần chủ động đi khám, nội soi dạ dày ngay khi có dấu hiệu đau dạ dày, ăn uống khó tiêu, nôn, buồn nôn... Những người từng bị chẩn đoán viêm loét dạ dày hay bị các rối loạn tiêu hóa mà điều trị nội khoa lâu không đỡ cũng cần đi nội soi lại để kịp thời phát hiện bệnh.
Điểm danh các chủng HPV gây ung thư Tỷ lệ nhiễm HPV khá phổ biến. Trong phần lớn trường hợp, cơ thể có khả năng tự loại bỏ virus, một số có thể tiến triển thành ung thư. Các chủng HPV gây ung thư thường là HPV-16, HPV-18. HPV là gì? HPV là tên gọi tắt của human papilloma virus(virus gây u nhú ở người). HPV là một nhóm lớn bao...