Có hai bằng ĐH, vẫn về quê lập nghiệp
Rời giảng đường đại học, thay vì đi kiếm việc ở các cơ quan, doanh nghiệp như hầu hết bạn bè cùng trang lứa, chàng kỹ sư Phạm Văn Thành (thôn An Lãng, xã An Hòa, huyện Vĩnh Bảo, TP. Hải Phòng) lại lựa chọn cho mình cách đi riêng.
Hai bằng đại học… về quê
“Dễ tìm lắm, cứ đi thêm khoảng 200 mét nữa, khi nào thấy cái xưởng bên cạnh đường, tiếng máy may kêu rào rào thì đó chính là xưởng của Thành. Dân xã này toàn gọi cậu ấy là Thành “may” vì xưởng may của cậu ấy tạo được nhiều việc cho bà con trong xã”. Người dân nơi đây có vẻ đều rất quen thuộc và ngưỡng mộ chàng kỹ sư trẻ Phạm Văn Thành, người sở hữu hai khu xưởng sản xuất khang trang, diện tích vài trăm mét vuông, cùng những chiếc máy may hiện đại.
Thành tâm sự, mỗi người có một cách làm giàu, nhưng với Thành thì “không gì bằng được khởi nghiệp ở nơi chôn rau cắt rốn”. Cũng vì ý nghĩ như vậy, thời gian đầu, Thành bị không ít người cho là “gàn dở”. Thành có trong tay 2 tấm bằng đại học (một của trường ĐH Giao thông Vận tải Hà Nội và một của trường ĐH Kinh tế Quốc dân), song lại chọn nông thôn làm nơi khởi nghiệp. “Người ta đi học đại học để thành ông nọ bà kia, công việc nhàn hạ, bám trụ lại thành phố, chỉ có dở người mới vậy!”, Thành từng bị rất nhiều kẻ từng dè bỉu như vậy. Ngay bố mẹ đẻ cũng không ủng hộ Thành, phần vì chưa tin tưởng, phần vì người nói vào, nói ra.
Chàng kỹ sư Phạm Văn Thành (thôn An Lãng, xã An Hòa, huyện Vĩnh Bảo, TP. Hải Phòng).
Trở thành ông chủ từ 5 chiếc máy may
Thiếu sự ủng hộ, Thành đành ra nội thành làm thuê cho một công ty may xuất khẩu. Trong thời gian làm việc ở đây, Thành nảy ra sinh ý tưởng sẽ mở xưởng may ở quê để tạo việc làm cho người dân trong thôn, xã. Sau khi học “lỏm” được chút kiến thức về nghề may, cuối năm 2008, Thành quyết định thôi việc, về làng mở xưởng. Thấy con quyết tâm, bố mẹ cũng đồng ý cho Thành mở xưởng. Số vốn vay ngân hàng, cộng với huy động từ bạn bè chỉ đủ mua được 5 chiếc máy may. Thời gian đầu là giai đoạn hết sức khó khăn, xưởng nhỏ, thiết bị ít, chẳng ai yên tâm khi đặt đơn hàng tại một xưởng sản xuất mini như vậy.
Video đang HOT
Không chấp nhận thua cuộc, Thành tìm ra các chợ lớn tại trung tâm thành phố tìm những mối hàng chợ để duy trì công việc. Máy ít, để bảo đảm giao hàng đúng hạn, có ngày, Thành phải thức cùng công nhân làm việc suốt đêm, đến 4 – 5h sáng lại chở quần áo ra thành phố để giao cho kịp hẹn.
Với sự kiên trì cùng với chất lượng may ngày một nâng cao, đơn hàng về xưởng nhiều dần. Đến nay, xưởng chủ yếu làm những đơn hàng xuất khẩu sang Nhật Bản, EU… Từ chỗ chỉ có 5 máy, hiện xưởng đã trang bị được hơn 60 máy may, chưa kể hàng chục máy đầu tư cho công nhân mang về làm tại nhà. Xưởng may của Thành tạo được việc làm cho hơn 80 lao động, tất cả đều là những công nhân xuất thân nông dân chính gốc, với thu nhập ổn định từ 2,5 đến 3 triệu đồng/người/tháng. Ngoài xưởng may, Thành đang tiếp tục đầu tư xây dựng xưởng sản xuất giày da, bắt đầu đi vào hoạt động.
Không chỉ quan tâm làm kinh tế, hằng năm, Thành còn phối hợp với trường Trung cấp nghề Kiến An mở lớp dạy nghề ngay tại xưởng cho nông dân và những người khuyết tật. Sau khi kết thúc khóa học, Thành tạo điều kiện giúp họ được làm việc tại xưởng, thậm chí, đưa máy may đến tận nhà giúp họ có việc làm, tự nuôi sống bản thân…
Làm ăn có hiệu quả, mô hình sản xuất của Phạm Văn Thành được thanh niên nhiều nơi trong thành phố và các tỉnh lân cận như Hải Dương, Thái Bình đến học hỏi kinh nghiệm. “Giúp được người khác làm giàu chính đáng cũng là giúp đất nước thêm giàu mạnh. Mình thường chia sẻ kinh nghiệm với mọi người, biết đâu mai này, trong số họ, có người lại trở thành những ông chủ lớn, thành bạn hàng của mình”, Thành tâm sự.
Tôi chọn quê tôi để lập nghiệp Đào Thị Lụa (Hưng Yên) – trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội: Ngay từ những ngày đầu chọn học ngành Khuyến nông và Phát triển nông thôn, tôi đã xác định học xong sẽ về quê làm việc. Bước sang đại học năm thứ 3, tôi biết cơ hội để xin được việc làm đúng ngành đúng nghề ở quê là không cao nhưng có một điều tôi chắc chắn Hưng Yên là nơi thích hợp nhất để tôi làm việc sau khi tốt nghiệp. Dù công nghiệp đang rất phát triển nhưng ở quê tôi, tỷ lệ làm nông nghiệp vẫn chiếm khá cao. Bà con nông dân quê tôi làm nông vẫn sơ sài, năng suất vẫn chưa cao. Những kỹ sư khuyến nông cùng bàn bạc sinh kế, định hướng với bà con để trồng trọt và chăn nuôi có năng suất và chất lượng cao là cần thiết. Gia đình tôi có một trang trại chăn nuôi nho nhỏ đợi tôi trở về để phát triển. Với những kiến thức đã được học ở trường, tôi tự tin mình có thể làm tốt những công việc này. Vả lại, là con gái, tôi cũng rất mong muốn sau này được làm việc và xây dựng gia đình gần bố mẹ, anh em ở quê hương mình. Nguyễn Hải Hà (Bắc Kạn) – trường ĐH Lâm nghiệp Việt Nam: Trở thành kỹ sư ngành Lâm học trong tương lai không xa, tôi thấy mình cần có trách nhiệm hơn với công cuộc bảo vệ và phát triển rừng tại quê hương mình. Sau khi học xong, tôi sẽ trở về Bắc Kạn làm việc và tôi thực sự muốn được làm những công việc liên quan đến ngành Lâm học tôi đang theo học. Mong ước của tôi đầu tiên là làm thế nào để thay đổi nhận thức của người dân về rừng. Khi thấy được lợi ích lâu dài của rừng mang lại, người dân sẽ không vì cái lợi trước mắt mà tàn phá rừng, nhất là những khu rừng nguyên sinh đầu nguồn. Giúp dân bảo vệ, phát triển và làm giàu với việc trồng rừng cũng là điều tôi muốn thực hiện. Xa hơn, tham vọng của tôi là gây dựng được một doanh nghiệp tại địa phương, vừa thu mua những sản phẩm từ rừng trồng, tạo đầu ra cho việc khai thác rừng hợp pháp vừa tạo công ăn việc làm chính đáng cho đối tượng lao động là thanh niên ở địa phương. Và tôi tin, ở Bắc Kạn, giấc mơ của tôi sẽ trở thành hiện thực! Lê Văn Biên (Hải Dương) – trường ĐH Bách khoa Hà Nội: Vừa tốt nghiệp loại khá ngành Khoa học và Công nghệ vật liệu của trường ĐH Bách khoa Hà Nội, tôi nhận ngay được lời mời của một doanh nghiệp khai khoáng tại Hải Dương. Mức lương hấp dẫn không kém gì các các doanh nghiệp ở các thành phố lớn cộng thêm những ưu đãi cho con em địa phương của quê hương tôi đã thôi thúc tôi từ bỏ giấc mơ đi đến những nơi xa xôi khác của đất nước. Là thanh niên, cuộc sống an nhàn, ổn định ngay sau khi ra trường có vẻ có đôi chút nhàm chán. Nhưng nghề của tôi thì làm việc ở đâu cũng có thể tha hồ tìm tòi, khám phá. Vậy thì cần gì phải đi đâu xa để thỏa chí vẫy vùng, trong khi, quê hương đang thực sự cần mình? Tôi đang nhanh chóng hoàn thành hồ sơ và thu xếp để trở về quê làm việc. Nguyễn Thị Huyền Trang (Quảng Ninh) – du học sinh tại Nhật Bản : Tôi chọn du học ở Nhật để rèn rũa và nâng cao thêm tiếng Nhật. Dự định của tôi là sau khi học xong sẽ trở về Quảng Ninh và phát triển ngành du lịch tại Hạ Long quê hương tôi. Cần gì phải làm việc ở đâu xa khi chính quê hương tôi là nơi có nhiều cơ hội và tiềm năng nhất để tôi phát triển sự nghiệp. Tôi đã lên kế hoạch cụ thể với vài người bạn học du lịch và quản trị kinh doanh ở trong nước. Chúng tôi sẽ mở một công ty chuyên về du lịch tại Quảng Ninh, hợp tác chủ yếu với đối tác người Nhật. Làm giàu cho bản thân, tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương, đem lại lợi ích cho quê hương là mong muốn của tôi. Và tôi tin, mình sẽ thành công! Hoài Thương
Theo Phạm Cường
Sinh Viên Việt Nam
Sinh viên thất nghiệp do thiếu định hướng nghề
Một khảo sát mới nhất được công bố tại hội thảo khoa học "Giải pháp gắn kết giữa đào tạo với thị trường lao động ở Việt Nam" do Trường ĐH KHXH&NV - ĐHQGHN vừa tổ chức cho thấy sinh viên thất nghiệp do thiếu định hướng nghề.
Học chỉ cần có bằng đại học
Cuộc hội thảo nằm trong dự án Nghiên cứu chính sách hợp tác với Quỹ Rosa - Luxemburg của CHLB Đức. Theo khảo sát công bố tại hội thảo, trong số gần 3.000 sinh viên đã tốt nghiệp được hỏi, có 73% sinh viên (SV) tìm được việc sau khi tốt nghiệp, song có tới 58,2% SV tốt nghiệp không biết xin việc ở đâu, 42% không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng, 27% không xin được việc vì lý do ngành học không phù hợp với thị trường, thậm chí có 18% SV không tìm được việc vì nhà tuyển dụng không biết đến ngành đào tạo.
Từ góc độ người giảng dạy, TS. Trịnh Văn Tùn và Ths. Phạm Huy Cường, Trường ĐH KH XH & NV - ĐHQGHN đã có nghiên cứu điều tra sự gắn bó giữa ngành đào tạo và nghề kì vọng nhìn từ góc độ hướng nghiệp và tư vấn hướng nghiệp của/cho SV ĐHQGHN. Kết quả điều tra cho thấy, đa số SV đều chưa có một định hướng cụ thể nào cho nghề nghiệp của họ sau khi tốt nghiệp với con số 70% trả lời "đã nghĩ tới công việc rồi nhưng chưa chắc chắn và không có nhiều thông tin về hệ thống nghề" gắn với định hướng đó. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, một bộ phận lớn SV sau khi đã đi gần hết quá trình đào tạo trong trường đại học, chuẩn bị bước vào môi trường lao động nghề nghiệp, thì họ còn thiếu một định hướng đầy đủ và cụ thể cho nghề nghiệp của mình.
TS. Trịnh Văn Tùn cho hay: "Ở đây chúng tôi mới chỉ đánh giá được ở góc độ tinh thần, tâm thế của SV và đặc biệt là sự khiếm khuyết thông tin về các nghề gắn với ngành đào tạo. Do vậy, mức độ mù mờ trong định hướng nghề của SV là rất cao. Họ nghĩ đến việc làm nhưng không biết làm việc gì cụ thể để phát huy kiến thức và kĩnăng học được từ ngành học. Như vậy, mối liên hệ được kì vọng là chặt chẽ giữa bên cung lao động và cầu lao động chưa đạt được".
Cũng theo kết quả phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm trong nghiên cứu của TS Tùn, cho thấy rằng, một bộ phận không nhỏ SV ngay từ khi lựa chọn ngành học và trong quá trình học, đã không có một sự định hướng cụ thể và "cũng không được ai khuyên" về các nghề gắn với ngành học của mình. Việc SV tiếp cận và theo học chuyên môn hiện tại của mình đôi khi xuất phát từ một điều ngẫu nhiên, từ một kinh nghiệm gia đình, bè bạn hoặc chỉ đáp ứng được nhu cầu "có bằng đại học".
Sinh viên cần trang bị nhiều kỹ năng mới có khả năng tìm được việc làm ngay sau khi ra trường.
Doanh nghiệp thờ ơ với SV mới ra trường
Phân tích về chất lượng nguồn nhân lực qua đào tạo, bà Vũ Thu Hà, giám đốc công ty CP ứng dụng tâm lý Hoa Mặt Trời, cho biết: "Theo một thống kê, có đến 94% SV mới ra trường khi đi làm cần được đào tạo lại để đáp ứng nhu cầu cụ thể của doanh nghiệp. Trong đó, các nội dung cần đào tạo lại có 92% về nghiệp vụ chuyên môn, 61% về kỹ năng mềm cơ bản, 53% về kỹ năng giao tiếp, ứng xử có văn hóa... Điều đáng nói là trong quá trình tuyển dụng, không ít lần chúng tôi gặp phải đó là SV, kể cả những SV có bằng loại giỏi nhưng lại rất yếu kém về chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là những kỹ năng thực hành để bắt tay ngay vào công việc. Nhiều SV còn chưa xác định được mục tiêu nghề nghiệp của mình, còn mơ hồ với năng lực và khả năng của mình cũng như không biết bản thân có phù hợp với nghề đã chọn nữa hay không".
Các chuyên gia cho biết một điểm yếu khác mà SV hiện nay thường mắc phải là khả năng ngoại ngữ, tin học và kỹ năng sử dụng các thiết bị văn phòng còn rất yếu kém. Nhiều SV bị trượt ngay từ vòng phỏng vấn do yếu kém ngoại ngữ và tin học văn phòng. Khi vào làm việc, nhiều SV lúng túng khi phải sử dụng những thiết bị như máy in, máy fax, máy photocopy... và điều này thường gây khó chịu cho nhà tuyển dụng.
Bà Hà cho rằng: "Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp tỏ ra thờ ơ với SV mới ra trường. Họ cho rằng phải mất nhiều thời gian để đào tạo lại SV tốt nghiệp từ những kỹ năng cơ bản như soạn thảo văn bản, gửi email cho đến giao tiếp, tác phong làm việc. Bù lại, họ tập trung tuyển chọn những cá nhân có nhiều kinh nghiệm làm việc để bắt tay ngay vào công việc của họ yêu cầu. Điều này trực tiếp làm giảm đi cơ hội có được việc làm cho các SV khi mới tốt nghiệp ra trường".
Bà Hà đề nghị: "Cần phải thay đổi hệ thống, phương pháp, nội dung giáo dục ngay tại các cơ sở đào tạo. Theo chúng tôi, hiện tại, các chương trình đào tạo tại các trường đại học mang tính hàn lâm, rập khuôn một chiều, ít gợi mở tính sáng tạo cho người học, quá trình giáo dục thiếu chủ động vì thế chúng cũng tạo ra nguồn nhân lực thụ động, với kiến thức cái gì cũng biết nhưng biết không đến nơi đến chốn. Cần có sự phối hợp và liên kết chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo và các đơn vị tuyểndụng. Về phía nhà trường, nên đưa chương trình đào tạo kỹ năng vào chương trình chính thức".
Đưa ra giải pháp nâng cao năng lực tìm kiếm việc làm cho SV tốt nghiệp ra trường, TS. Phạm Mạnh Hà, khoa Tâm lý học, Trường ĐH KH XH&NV, cho rằng một trong những biện pháp mang tính khả thi cao nhằm giúp các SV nhanh chóng tìm được việc làm phù hợp đó là trang bị ngay cho họ những kỹ năng mềm cần thiết (kỹ năng phỏng vấn xin việc, kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng định vị bản thân...) trước khi các em tốt nghiệp ra trường. Ngoài các kiến thức chuyên môn, chuyên ngành thì SV cần được trang bịthêm những kiến thức và kỹ năng xã hội để có thể hòa nhập dễ dàng với thị trường lao động ngay sau khi tốt nghiệp.
TS Hà kiến nghị: "Các chương trình tập huấn kỹ năng nên được tổ chức thường xuyên, có chất lượng ngay từ năm thứ nhất đến năm thứ tư với các nội dung tập huấn được sắp xếp phù hợp với tính chất của từng năm học. Ví dụ năm thứ nhất, SV cần được trang bị kiến thức và kỹ năng định vị bản thân và xây dựng mục tiêu nghề nghiệp, năm thứ tư SV lại cần được rèn các kỹ năng tìm kiếm việc làm và phỏng vấn xin việc... Chương trình tập huấn kỹ năng cần được bổ sung vào chương trình học tập chính khóa nhưng vì đây là một môn học mang tính thực hành cao do đó cần được các giảng viên chuyên nghiệp trong giảng dạy kỹ năng đảm nhiệm. Tiếp tục nghiên cứu và thử nghiệm biện pháp tác động này một cách nghiêm túc và khoa học để từ đó áp dụng vào chương trình đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng".
Hồng Hạnh
Theo dân trí
Đau đầu, xấu hổ vì bằng đại học giả Thời gian qua tại nhiều trường ĐH ở TP.HCM đã phát hiện hàng trăm trường hợp sử dụng bằng giả được làm rất tinh vi. Điều đáng nói là các "cò" vẫn nhởn nhơ mua bán mà không hề bị xử lý. Cứ kiểm tra là phát hiện bằng giả Vừa qua, Phòng Đào tạo -Trường ĐH Công nghiệp TP.HCM nhận thư yêu...