Cô giáo Việt là người châu Á duy nhất dạy sư phạm tiếng Anh ở ĐH Úc
TS Ngo Tuyet Mai hien là giảng viên cao cấp của Truong ĐH Flinders (Úc). La giảng viên chau A duy nhat giảng dạy tai Khoa Xã hội, Nghệ thuật và Nhân văn, lai dạy nganh Su pham tieng Anh, khong it lan chi Mai nhan đuoc su bat ngo cua nhung sinh vien quoc te đến đây học tập.
TS Ngo Tuyet Mai hien là giảng viên cao cấp của Truong ĐH Flinders (Úc). La giảng viên chau A duy nhat giảng dạy tai Khoa Xã hội, Nghệ thuật và Nhân văn, lai dạy nganh Su pham tieng Anh, khong it lan chi Mai nhan đuoc su bat ngo cua nhung sinh vien quoc te đến đây học tập.
“Đe mot giang vien đuoc nhan vao dạy tại ngôi trường của Uc, trước hết, ho so của mình phai vượt trội hơn các ứng viên khác. Trong nhiều vòng phong van, bạn phai the hien bản thân là người xung đang với vị trí này”, TS Ngo Tuyet Mai kể về hành trình trở thành giảng viên của mình tại Trường ĐH Flinders.
Chị Mai nói, để chuẩn bị cho việc ứng tuyển vào vị trí này, chị đã phải dành nhiều năm để trang bị cho mình kiến thức, kỹ năng, những trải nghiệm cần thiết và sự không ngừng học hỏi từ những giảng viên, giáo sư giỏi. Chị cũng chủ động xin đi dự giờ giảng của các giảng viên có kinh nghiệm tại Trường ĐH Sydney và ĐH New South Wales – nơi chị học thạc sĩ và làm nghiên cứu sinh tiến sĩ.
“Tôi không nghĩ điều đó là vô ích. Việc đi dự giờ những giảng viên giỏi sẽ giúp tôi nắm bắt được các cách tiếp cận khác nhau và học hỏi rất nhiều điều từ họ. Hiểu rõ về môi trường và công việc của một giảng viên ở Úc, tôi mới biết bản thân đang đứng ở đâu và tìm cho mình một lộ trình học hỏi, cố gắng phấn đấu vươn lên”.
Sự chuẩn bị kỹ càng về mặt chuyên môn lẫn hiểu biết về vị trí ứng tuyển đã giúp nữ tiến sĩ người Việt thể hiện vượt trội trong buổi phỏng vấn lựa chọn giảng viên chính thức.
Trở thành giảng viên chau A duy nhat của khoa, chị Mai nói, dù rất nhiều sinh viên quốc tế khá “sốc” khi nhìn thấy một cô giáo da vàng đến Úc giảng dạy ngành Sư phạm tiếng Anh, nhưng chị lại coi đó là lợi thế để gần gũi, hiểu và truyền cảm hứng cho các sinh viên của mình.
“Tôi luôn cố gắng học hỏi, liên tục đổi mới bài giảng, đồng thời không chờ tới hết môn mới xin phản hồi từ phía sinh viên. Tôi làm điều đó rất thường xuyên trong một học kỳ, thậm chí thành thói quen sau mỗi tiết học để có những điều chỉnh kịp thời.
Trước khi bắt đầu bài dạy, tôi luôn vui vẻ nói với các học viên của mình rằng: “Nếu có chỗ nào các bạn chưa hiểu rõ, thì đó là lỗi của cô. Các bạn hãy cho cô biết ngay trên lớp để cô tìm cách giảng lại một cách tường minh hơn”.
Video đang HOT
Nghe vậy, học trò cũng không ngần ngại chia sẻ với giáo viên những trăn trở của mình. Nhờ thế, các tiết học luôn cởi mở, vui vẻ và đạt hiệu quả tốt hơn. Sự gần gũi, tương tác giữa người dạy và người học, theo nữ giảng viên sinh năm 1973, là điều cần thiết nhưng lại đang rất thiếu trong các giờ học trên giảng đường.
Gắn bó với Truong ĐH Flinders đến nay vừa tròn 5 năm, chị Mai nói bản thân vẫn rất trăn trở khi lựa chọn ở lại Úc sinh sống và làm việc. Đó cũng là lý do sau nhiều năm học sau đại học tại Úc, không ít lần chị Mai quay trở lại Việt Nam, lựa chọn làm việc tại ngôi trường mình từng theo học là Trường ĐH Hà Nội.
“Nhung ngay thang còn ở trên giảng đường, cac thay co của Trường ĐH Hà Nội luon truyen cho chung toi tinh yeu nghề giáo, yêu ngon ngu va tinh yeu voi nen van hoa cua cac quoc gia nói tiếng Anh nhu Anh, My, Uc. Xen ke giua cac gio giang, đoi luc thay co lai ke rang: “Nghe bai hat nay, nhìn hình ảnh này, co thay nho Anh/ Uc qua!”.
Đieu đo khien nhung sinh vien chua tung đat chan ra nuoc ngoai nhu chung toi cam thay to mo, rang o noi đo đep nhu the nao ma chi can qua mot bai hat hay một hình ảnh cung khien cac thay co nho ca mot đat nuoc nhu vay.
Tôi quyết định nộp hồ sơ xin học bổng của Chính phủ Úc và may mắn có cơ hội nhận được học bổng thac si chuyên ngành Giang day tieng Anh o Truong ĐH Sydney năm 1999-2000. Ngay sau khi tốt nghiệp thạc sỹ, mặc dù có cơ hội được làm việc ở Úc, tôi lại chọn trở về để tiếp tục cống hiến cho Trường ĐH Hà Nội gần 10 năm vì cảm thấy có duyên nợ với ngôi trường này”.
Nhờ sự cống hiến trong suốt nhiều năm, chi Mai đuoc bo nhiem vao vi tri Truong khoa Đai cuong (nay la khoa Tieng Anh chuyen nganh) cua Truong ĐH Ha Noi vào năm 2005.
Trong 5 nam lam truong khoa, vì nhan thay bản thân van con thieu các ky nang về quan ly, chị Mai tiep tuc sang Uc đe hoc tiến sỹ chuyên ngành Quan tri Đai hoc trong vong 4 nam. Đến khi trở về, chị được bổ nhiệm vào vi tri Giam đoc Trung tam Giao duc quoc te tại Trường ĐH Hà Nội.
Sau đó 2 năm, chị tiếp tục quay trở lại Úc để làm nghiên cứu sau tiến sĩ và có co hoi tro thanh giang vien của Trường ĐH Flinders.
“Nguoi Viet song o đau neu co tinh yeu thi van co the đong gop cho đat nuoc”, chi Mai ly giai nguyên do sau rất nhiều trăn trở, bản thân đã quyet đinh o lai va lam viec tai Uc. Đến nay, cac du an nghiên cứu của chị Mai chủ yếu vẫn huong ve Viet Nam.
Trăn trở trước thực tế dạy và học tiếng Anh ở Việt Nam, vì thế, mỗi lần có dịp quay về nước, nữ giảng viên người Việt lại tổ chức các hội thảo miễn phí cho các giáo viên tiếng Anh. Hoạt động này đã được chị Mai duy trì liên tục kể từ đầu năm 2019.
Đến khi Covid-19 ập đến khiến Úc và nhiều quốc gia phải đóng cửa biên giới, không thể trở về, chị Mai cùng một số đồng nghiệp đã tổ chức những buổi hội thảo trực tuyến miến phí về các chủ đề mà giáo viên quan tâm như: “Giúp giáo viên giảm tải công việc nhờ các giải pháp thông minh”; “Cải thiện việc giảng dạy tiếng Anh thông qua cách dạy thu hút”,…
Từng là học sinh chuyên Anh của Truong THPT Chuyen Ha Noi – Amsterdam, sau này lại tiếp xúc với các môi trường đào tạo về giảng dạy tiếng Anh ở nước ngoài, theo chị Mai, có một số bất cập vẫn còn tồn tại trong việc dạy và học tiếng Anh ở Việt Nam.
Một trong những bất cập lớn nhất là cả giáo viên và người học đều đang bị áp lực về kiểm tra, thi cử; tap trung nhiều thời gian cho việc luyện các dạng bài thi ngu phap, tu vung và chứng chỉ tiếng Anh quốc tế như IELTS, TOEFL. Trong khi đó, việc tạo cơ hội để người học có thể sử dụng tiếng Anh như công cụ phục vụ giao tiếp hàng ngày, học tập, nghiên cứu và làm việc chưa được chú trọng.
Cho nên, nhiều học sinh Việt Nam mặc dù giỏi ngữ pháp và từ vựng, quen thuộc với các dạng bài thi tiếng Anh quốc tế nhưng lại thiếu sự tự tin và chủ động khi dùng tiếng Anh.
Ngoài ra, nhiều thay co luôn cang thang khi đặt mục tiêu giúp người học có năng lực tiếng Anh như người bản xứ. Chỉ cần học sinh nao phat am “hoi sai”, nói chưa chuẩn như những người bản xứ la giáo viên phai sua bang đuoc.
“Mặc dù việc sửa lỗi là cần thiết, nhung nếu thầy co đặt mục tiêu “như người bản xứ” sẽ tạo ra áp lực và khiến người học mất hứng thú khi học tiếng Anh. Từ sợ phát âm sai sẽ dẫn đến ngại nói, ngại giao tiếp. Cách dạy tiếng Anh như vậy sẽ không hiệu quả và đang đi ngược với xu thế hiện nay”, chị Mai nói.
Muc tieu của viec hoc tieng Anh nhắm đến mô hình “như người bản xứ”, theo chị Mai, là mục tiêu xa vời và không khả thi trong hầu hết các trường hợp.
Thay vào đó, giáo viên cần phải áp dụng các nguyên tắc cơ bản trong việc dạy tiếng Anh trên lớp để đem lại hiệu quả như thiết kế các hoạt động trên lớp sao cho thật thu hút, gần gũi với cuộc sống thường ngày; tạo động lực giúp người học tự học dưới sự hướng dẫn của giáo viên và tạo tối đa cơ hội để học sinh sử dụng tiếng Anh trong và ngoài lớp học.
Mặc dù hiện nay Bộ GD-ĐT, nhà trường và gia đình đã hiểu rằng tiếng Anh là ngôn ngữ toàn cầu; muốn giao tiếp với thế giới, ra nuoc ngoai học tập và làm việc thì phai thông thạo tieng Anh,… nên bắt đầu đầu tư nhiều hơn, nhưng theo chị Mai, có một thực tế, hiện nay vẫn còn rất nhiều người chưa đu khả năng sử dụng tiếng Anh tối thiểu đe giao tiep, học tập, nghiên cứu va làm việc.
“Tôi cho rằng, chìa khóa quan trọng nhất để cạnh tranh và tránh tụt hậu chính là phải đầu tư cho giáo dục nói chung, việc dạy và học tiếng Anh nói riêng. Việt Nam cần ưu tiên đào tạo thật bài bản một thế hệ giáo viên dạy tiếng Anh mới có khả năng bắt kịp với sự thay đổi của ngôn ngữ, của công nghệ và toàn cầu hóa.
Nếu có nhiều giáo viên dạy tiếng Anh bài bản, hiệu quả và chuyên nghiệp hơn thì chắc chắn sẽ có nhiều người Việt Nam giao tiếp, làm việc, nghiên cứu bằng tiếng Anh dễ dàng hơn. Làm được điều đó, chắc chắn Việt Nam sẽ tiến xa trong mọi mặt, đặc biệt trong phát triển kinh tế”.
Trường ĐH Hà Nội mở rộng đối tượng xét tuyển vào đại học
Năm 2021, Trường ĐH Hà Nội xét tuyển thí sinh có tổng điểm 3 môn thi Toán, Ngữ Văn, Ngoại ngữ hoặc Toán, Vật lý, Tiếng Anh trong kỳ thi tốt nghiệp THPT đạt từ 16 điểm trở lên, tính theo thang điểm 10, chưa nhân hệ số.
Trường ĐH Hà Nội sẽ tuyển 2.635 chỉ tiêu cho 25 mã ngành đào tạo, trong đó có 13 mã ngành thuộc khối ngôn ngữ nước ngoài và 12 mã ngành là các chuyên ngành đào tạo bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.
Có 5 chương trình tăng trung bình 25 chỉ tiêu là Ngôn ngữ Nga, Ngôn ngữ Bồ Đào Nga, Ngôn ngữ Trung Quốc CLC, Ngôn ngữ Hàn Quốc CLC, Công nghệ Thông tin CLC nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động về nguôn nhân lực chất lượng cao, vững chuyên môn, thành thạo ngoại ngữ.
Trường ĐH Hà Nội vẫn giữ phương thức tuyển sinh ổn định như năm ngoái, gồm: Xét tuyển thẳng theo quy định của Bộ GD-ĐT (gồm cả ưu tiên xét tuyển thẳng) chiếm 5% tổng chỉ tiêu; Xét tuyển kết hợp theo quy định của Trường ĐH Hà Nội chiếm 30% tổng chỉ tiêu; Xét tuyển dựa trên kết quả của kì thi tốt nghiệp THPT năm 2021 chiếm 65% tổng chỉ tiêu; Xét tuyển bằng học bạ và trình độ tiếng Anh cho các chương trình đào tạo liên kết với nước ngoài.
Trong trường hợp trường không tuyển hết số chỉ tiêu theo phương thức thứ nhất và thứ hai thì các chỉ tiêu đó sẽ dành cho phương thức tuyển sinh thứ ba.
Mở rộng đối tượng xét tuyển kết hợp
Một điểm mới trong tuyển sinh của năm nay là Trường ĐH Hà Nội sẽ mở rộng các đối tượng xét tuyển kết hợp.
Năm ngoái, các đối tượng xét tuyển kết hợp gồm thí sinh là học sinh các lớp chuyên thuộc trường THPT chuyên; các lớp chuyên thuộc trường THPT trọng điểm; thí sinh THPT có chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế; thí sinh có điểm SAT đạt 1100/1600, ACT đạt 24/36, A-Level đạt 60/100.
Năm 2021, ngoài các đối tượng trên, Trường ĐH Hà Nội xét tuyển thêm thí sinh là học sinh các lớp song ngữ thuộc trường THPT chuyên; thí sinh là thành viên đội tuyển học sinh giỏi cấp quốc gia; thí sinh đạt giải Nhất, Nhì, Ba cấp tỉnh/ thành phố; thí sinh được chọn tham dự cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia do Bộ GD-ĐT tổ chức;...
Thí sinh tham dự Vòng thi tháng cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia của Đài truyền hình Việt Nam cũng thuộc diện được xét tuyển theo phương thức kết hợp.
Trừ các thí sinh có điểm SAT, ACT và A-Level, tất cả các thí sinh tham gia xét tuyển kết hợp khác cần phải đạt tối thiểu các tiêu chí như điểm trung bình chung môn ngoại ngữ từng năm THPT từ 7; trung bình chung 3 môn thi tốt nghiệp THPT năm 2021 (Văn, Toán, Ngoại ngữ hoặc Toán, Vật lý, Tiếng Anh) đạt từ 7; điểm trung bình chung 3 năm THPT đạt từ 7.
Chỉ tiêu tuyển sinh năm 2021 của Trường Đại học Hà Nội dự kiến như sau:
Sinh viên sư phạm tiếng Anh không mặn mà dạy tiểu học? Nếu tốt nghiệp sư phạm tiếng Anh bậc đại học thì sinh viên sẽ ưu tiên nộp đơn thi tuyển vào các trường THCS, THPT hoặc đi làm ở các trung tâm thay vì lựa chọn dạy ở bậc tiểu học. Giáo viên tiếng Anh đang dạy tại một trường tiểu học ở TP.HCM - NGUYỄN LOAN Đây là thực tế diễn ra...