Cô giáo Lê Thị Ánh Phượng: 15 năm cắm bản là trải nghiệm tốt đẹp của đời tôi
Cô Lê Thị Ánh Phượng được biết đến là giáo viên cắm bản, công tác nhiều năm ở vùng cao, giáo dục cực kỳ khó khăn.
Là một trong hai giáo viên tỉnh Nghệ An được tôn vinh giáo viên tiêu biểu toàn quốc, cô Lê Thị Ánh Phượng được biết đến là giáo viên cắm bản, công tác nhiều năm ở vùng cao, giáo dục cực kỳ khó khăn.
Gắn bó vì những bữa ăn của học sinh
Tốt nghiệp đại học, chuyên ngành sư phạm mầm non, cũng như bao sinh viên ước mơ về một công việc ổn định, thế nhưng chỉ sau một lần thực tập ngay chính những trường học ở vùng núi quê nhà, cô giáo Lê Thị Ánh Phượng quyết định gắn bó thanh xuân, cuộc đời với sự nghiệp giáo dục vùng sâu, vùng xa.
Quỳ Châu thuộc miền Tây Bắc, tỉnh Nghệ An là huyện có địa hình khá phức tạp khi có hơn 72% diện tích ở độ cao trên 200m so với mặt nước biển, bị chia cắt bởi mạng lưới sông suối dày đặc. Đây là khó khăn cho Quỳ Châu trong phát triển kinh tế – xã hội mà trước hết là hạn chế khả năng giao lưu giữa các xã trong huyện và mở mang diện tích đất nông nghiệp.
Dù biết đây là nơi đất cằn sỏi đá, đầy rầy những khó khăn, nhưng cô Ánh Phượng vẫn quyết tâm bám bản để mang giáo dục đổi mới miền đất vùng cao.
Nói chuyện với tôi khi đêm đã khuya, cũng là lúc cô Phượng kết thúc một ngày dài vất vả với những công việc thường ngày sau buổi đến trường.
Làm mẹ vốn dĩ đã là việc vất vả khi hai con còn nhỏ, nhưng càng vất vả hơn với một người mẹ tham gia công tác giảng dạy tại một trường học cách nhà 27 km, đi về hàng ngày.
Cô Lê Thị Ánh Phượng được biết đến là giáo viên cắm bản, công tác nhiều năm ở vùng cao giáo dục cực kỳ khó khăn. (Ảnh: Nhân vật cung cấp)
Kể với tôi nghe những câu chuyện đến trường hàng ngày với giọng lạc quan, cô nói: “Trong trường của mình có hơn chục thầy cô giáo nhà xa trường, họ đều đến từ vùng thuận lợi và tình nguyện đến vùng khó khăn của Quỳ Châu này để cống hiến. Đường vào đến trường khoảng 27 cây số, đường thì bên dốc, bên vực, mùa lạnh y như đèo Hải Vân thu nhỏ, trong lòng thực mà nói là vừa đi, vừa lo.
Hết giờ dạy, những đoàn xe máy của các thầy cô bám bản lại chờ đợi và nối đuôi nhau ra về. Có những lúc mệt thật, những lúc chỉ chực chờ bỏ cuộc, chọn một công việc nhẹ nhàng hơn nhưng rồi mình nghĩ, nếu ai cũng như thế thì công tác giáo dục miền núi còn ai muốn gắn bó dài lâu. Cứ thế rồi các thầy cô tự nhủ mình, động viên đồng nghiệp tiếp tục vượt qua”.
Khó khăn là câu chuyện hiện diện hàng ngày và có thật nhưng chưa một lần cô Phượng bấm bụng bỏ cuộc chỉ vì chứng kiến cảnh học sinh đến trường chỉ với ép xôi và muối, con cá khe bố nướng vắt ngang trên cục cơm nguội hay chỉ đơn giản là gói xúp (bột canh) mỳ tôm với cơm nguội…
“Phải tận mắt chứng kiến, sống cùng, sinh hoạt cùng, chia sẻ và thấu hiểu cùng thì mới thấm những vất vả của các thầy cô chưa có gì so với khó khăn của học sinh nơi đây”, cô Phượng tâm sự.
Những con đường tới bản, một bên vực, một bên núi, vất vả, khó khăn là thế nhưng cũng là nơi gửi gắm những gì tinh túy nhất của nghề nhà giáo.
Trong những nốt trầm của khúc tâm sự, cô Phượng vẫn vui tươi, dí dỏm khi nói rằng: “Năm thứ 15 cắm bản, nhiều phụ huynh còn trêu mình, nếu muốn biết đường Châu Phong hỏi cô Phượng là biết hết. Cô Phượng quen đường đến mức đếm được những ổ gà trên đường Châu Phong”.
Video đang HOT
Cô Ánh Phượng là một trong những lá cờ tiên phong tình nguyện đi đến từng nhà, vào từng thôn bản để vận động con em đồng bào đến trường. (Ảnh: Nhân vật cung cấp)
Gia đình là nguồn động lực rất lớn
Thành công, thành tựu hay tấm bằng khen mới nhất của cô Ánh Phượng được tôn vinh đều có công rất lớn từ hậu phương là gia đình.
Cô Phượng tâm sự: “Từ khi còn đi học và đến bây giờ đã làm nghề giáo được 14-15 năm, làm vợ và làm mẹ của hai đứa nhỏ thì nguồn động viên lớn nhất giúp mình vượt qua những khó khăn đó chính là gia đình.
Mẹ mình cũng là một giáo viên, là giáo viên đi từ vùng thuận lợi đến vùng khó khăn để cắm bản đem con chữ cho học trò miền sâu miền xa.
Chắc cũng vì thế mà những nhiệt thành với nghề của bản thân mình được ngấm vào máu từ thuở bé khi mình được chứng kiến công việc người thầy lớn nhất của cuộc đời là mẹ”.
Đi làm, đi dạy và đặc biệt là công tác vận động học sinh tới trường, có những lúc đi sớm từ khi gà gáy đến tối muộn mặt trời xuống núi ở vùng cao này nếu không có những động viên của gia đình làm chỗ dựa tinh thần thì những người như cô Ánh Phượng quả thực khó bề thực hiện công tác giáo dục miền núi.
Vận động học sinh là công tác gian truân nhất trong quá trình giáo dục vùng cao. Là giáo viên môn âm nhạc, nhưng phụ trách công tác đoàn, đội tại trường nên cô Ánh Phượng là một trong những lá cờ tiên phong tình nguyện đi đến từng nhà, vào từng thôn bản để vận động con em đồng bào đến trường.
Vì biết được tầm quan trọng của sự khích lệ, động viên của gia đình chính là cái nôi để con em đồng bào có thể xây ước mơ cắp sách đến trường nên cô Phượng vô cùng quan tâm, thực hiện công tác vận động học sinh bằng cả tấm lòng.
Giáo dục vùng cao ghi dấu những hi sinh thầm lặng của các thầy cô như cô giáo Ánh Phượng để mong muốn đưa đời sống vùng cao, vùng sâu thoát nghèo bằng con chữ. (Ảnh: Nhân vật cung cấp)
Trong hành trình vận động học sinh đến trường có những nỗi vất vả không được gọi thành tên. Đường đi vào bản nhỏ hẹp. Vùng cao miền Trung quanh năm thời tiết khắc nghiệt.
Mùa hè gió lào thổi bỏng rát, nắng táp như mặt trời áp thẳng chỉ cách con người vài gang tấc. Mùa đông rét cắt da, cắt thịt. Cái rét, sương muối, sương mù… dẫu gian khó như thế nhưng không làm giảm ý chí kiên cường bám bản, đưa học sinh tới trường của các thầy cô nơi đây.
“Hành trình đó gian khó bao nhiêu thì đổi lại mình cảm thấy hạnh phúc bấy nhiêu khi học sinh nơi đây ngày đến lớp càng đông. Bữa ăn các em dắt lưng mang đi dù đạm bạc, dù chẳng có gì nhưng chỉ cần các em hiểu rằng, chỉ cần đến trường, tương lai các em sẽ thay đổi thì những nước mắt mặn mòi, vất vả ngày hôm nay sẽ được đền đáp bằng tương lai tươi sáng.
Đối với những giáo viên cắm bản, dù làm công tác gì, thì đó là một niềm hạnh phúc”, trong giọng nói cô Phượng ánh lên bao niềm vui ngập tràn.
Công tác vận động địa phương miền sâu, miền xa cũng gặp nhiều khó khăn vì không chỉ sự xa cách địa lý mà sự mặc cảm, tự ti, ngại giao tiếp và văn hóa không tương đồng của các dân tộc.
Một trong những câu chuyện mà cô Ánh Phượng nhớ nhất trong hơn 14 năm cắm bản là về cậu học trò nhỏ Bảo Khanh của mình.
Mẹ Bảo Khanh mất sớm, bố em đi bước nữa, hoàn cảnh vốn dĩ đã khó khăn chồng chất khó khăn khi gia đình đông con nhưng không đông của. Nhà Khanh là gia đình nghèo nhất của nơi nghèo nhất. Có lẽ vì thế mà dù rất bé, là cậu học trò thông minh, học giỏi nhưng Khanh mặc cảm, tự ti với hoàn cảnh và số phận của mình.
“Khi mọi người đến vận động Khanh đi học mới tưởng tượng ra có một gia đình tại huyện mình làm việc lại khó khăn hơn cả khó khăn như thế. Em Khanh xấu hổ không phải vì gia đình nghèo, vì đông con bởi ở đây dân số phần đông đều như thế mà có lẽ do thấy các cô giáo vào đến nơi vận động nên em chạnh lòng.
Lúc đấy, tâm lý trẻ con mình hiểu rõ. Khanh chạy trốn không gặp thầy cô. Cứ thế mấy ngày trôi qua, mình đến là em chạy trốn. Quyết tâm không để những học trò như Khanh vì mặc cảm mà mất con chữ, cuối cùng em không chạy trốn mình vào nương nữa, ở nhà nghe mình tâm sự, chia sẻ, an ủi và đồng ý đến trường.
Hôm đó, đoàn vận động có mấy thầy cô đi với nhau. Vào được nhà em Khanh dù quen đường rồi nhưng trời tối đi về thì cả đoàn bị lạc đường. Tìm mãi gặp được một người đi rừng lấy củi về mới tìm được đường ra. Dù mệt nhưng rất vui vì em Khanh đã đến trường”.
Bảo Khanh là một trong những học sinh vượt khó học giỏi. Em trở lại trường, nhận sự giúp đỡ của thầy cô, bạn bè, là một trong những học sinh giành học bổng tại trường.
Cô Phượng cũng như những thầy cô giáo miền xuôi bám bản, mang con chữ, hoạt động giáo dục đến từng bản làng với mong ước từ những mầm non vùng cao xanh có giáo dục để thay đổi cuộc đời.
Chính vì hi sinh cả tuổi xuân, gắn bó những năm tháng nhiệt huyết nhất của mình cho giáo dục miền núi bằng cả tâm huyết và sự nhiệt thành, đó cũng chính là lý do cô giáo Lê Thị Ánh Phượng được tôn vinh là tấm gương nhà giáo tiêu biểu do Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Công đoàn Giáo dục Việt Nam tổ chức hàng năm.
Lễ tri ân, vinh danh những nhà giáo có thâm niên giảng dạy, có uy tín và có nhiều cống hiến đối với ngành giáo dục nước nhà.
Lễ tri ân cũng là dịp để tôn vinh những tấm gương nhà giáo tiêu biểu, tận tụy, tâm huyết với nghề, đi đầu trong phong trào thi đua, các cuộc vận động và có ảnh hưởng tích cực đối với đồng nghiệp, học sinh và xã hội; ứng xử văn hóa, được đồng nghiệp, học sinh, cha mẹ học sinh tin yêu, quý trọng, được tập thể sư phạm suy tôn.
Giáo dục miền núi đang là một trong những trọng điểm của giáo dục Việt Nam, ở đó ghi dấu những hi sinh thầm lặng của các thầy cô như cô giáo Ánh Phượng để mong muốn đưa đời sống vùng cao, vùng sâu thoát nghèo bằng con chữ.
Chuyện chưa kể về giáo viên cắm bản sáng gõ từng nhà, trưa vượt hàng km đưa cơm cho trẻ
Mỗi sáng, các cô giáo mầm non cắm bản tại xã Lâm Hóa phải thức dậy từ sớm, gõ cửa từng nhà sàn để đón trẻ đến trường; trưa, chiều lại lặn lội vượt hàng cây số về trung tâm, chở cơm, cháo lên bản cho học trò.
Vượt hàng km đưa cơm cho trẻ
Trước thềm ngày Hiến chương Nhà giáo Việt Nam 20/11, chúng tôi đã có dịp về với xã Lâm Hóa, huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình), đến thăm cô trò tại Trường Mầm non xã Lâm Hóa.
Có đến tận nơi mới thực sự thấu hiểu được những sự khó khăn, vất vả của những thầy, cô đang hàng ngày bám bản, gieo chữ và lan tỏa những yêu thương đối với học trò dân tộc nơi xã miền núi xa xôi của tỉnh Quảng Bình.
Các cô giáo lặn lội vượt hàng cây số về trung tâm, chở cơm, cháo lên bản cho học trò.
Trường Mầm non xã Lâm Hóa hiện có 4 điểm trường với 120 em học sinh, đặc biệt 3 điểm trường nằm ở các bản Kè, Cáo và Chuối hết sức khó khăn, học sinh đều là con em đồng bào Mã Liềng, thuộc dân tộc Chứt.
Cái đói, cái nghèo đeo bám bản làng là vậy, nhưng con chữ vẫn được ươm mầm bởi có những giáo viên cắm bản luôn nặng lòng, tâm huyết với nghề, yêu thương con trẻ.
Tại Lâm Hóa, học sinh mầm non ở các điểm đều ăn bán trú, một bữa chính và một bữa phụ. Thế nhưng điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn, các điểm trường lẻ không thể tự nấu ăn cho trẻ, bởi vậy từ cơm trưa, cháo chiều đều phải vận chuyển từ điểm trường chính. Mỗi điểm trường lẻ có 2 giáo viên cắm bản, các cô cứ chia nhau ngày 2 lần xuôi về trung tâm để vận chuyển cơm, cháo cho học trò.
Cô Trần Thị Huyền Trang, giáo viên cắm bản tại bản Chuối đã có 8 năm gắn bó với những đứa trẻ người Mã Liềng. Suốt hành trình đó, cô Trang đã trải qua rất nhiều kỷ niệm, niềm vui và cả nỗi buồn, không biết bao nhiêu lần cô giáo này đã bật khóc trên con đường đi lấy cơm cho trẻ.
Từ bản Chuối về trường trung tâm gần 5km, cứ đến 10h trưa, cô Trang trên chiếc xe máy của mình lại xuôi về trung tâm chở cơm, đầu giờ chiều lại tiếp tục đi lấy bữa phụ cho cháu. Ngày nắng ráo đã vất vả, đến ngày mưa gió thì gian nan không kể xiết. Đường trơn, bùn lầy, nhiều lần cả cô giáo và xe ngã nhào xuống, toàn bộ cơm đổ hết.
"Có hôm mưa, về đến gần bản rồi mà đường trơn quá, em bị ngã xe đổ hết cơm, canh của cháu, người còn bị thương. Xách những hộp rỗng còn lấm bùn đất vào lớp, nhìn học trò đang chờ cô về, em đã không kìm nổi nước mắt, òa khóc ngay tại lớp khiến các con cũng khóc theo", cô Trang xúc động nhớ lại.
Cơm của học sinh được các cơ đóng hộp cẩn thận, sạch sẽ.
Cũng như cô Trang, mỗi khi nhắc đến những tai nạn trên hành trình đưa cơm về bản, cô Trần Thị Dương, giáo viên tại bản Kè, xã Lâm Hóa lại sụt sùi, buồn tủi. Con đường từ bản Kè về trung tâm cũng hơn 5km, đường vùng vèo, trơn trượt, lại còn phải đi qua cầu treo chênh vênh, việc bị ngã xe với các cô giáo như cơm bữa.
Tất cả vì học trò của mình, các cô giáo lại càng cố gắng hơn để vượt qua. Như cô Dương tâm sự, điều sợ nhất không phải ngã xe, chấn thương, mà là học trò không còn cơm để ăn. Có hôm cô giáo đưa cơm về dọc đường thì bị đổ, ở trung tâm cũng không nấu kịp, thế là cô phải lặn lội đi mua mì tôm nấu cho các cháu.
"Yêu nghề, mến trẻ nên chúng tôi phải cố gắng vượt qua mọi khó khăn, lúc nào cũng muốn đưa cơm đến cho cháu thật an toàn. Các cô thường bảo nhau nếu không đi được thì đẩy bộ, lâu một tý, vất vả mấy cũng được, miễn sao bữa trưa, bữa chiều của cháu được đầy đủ", cô Dương tâm sự.
Muốn đủ lớp phải gõ cửa từng nhà
Bên cạnh việc đưa cơm phục vụ học sinh bán trú, công tác giảng dạy, nuôi dưỡng ước mơ cho thế hệ tương lai của các cô giáo mầm non tại xã Lâm Hóa cũng gặp muôn vàn khó khăn khác.
Với đặc thù là điểm trường nằm ở các bản làng dân tộc, suy nghĩ, ý thức về việc học tập cho con cái của đồng bào còn rất nhiều hạn chế. Bởi vậy muốn trẻ đến trường, các cô giáo phải đến từng nhà vận động phụ huynh, đưa các em về lớp.
Nhiều phụ huynh đến nay vẫn bỏ mặc việc con có đi học hay không, họ không chịu đưa trẻ đến trường. Vận động không được, các cô giáo cắm bản tại Lâm Hóa vì thương học trò, đã cố gắng dậy từ sáng sớm, thay phiên nhau vào gõ cửa từng nhà sàn, đón trẻ ra trường, dạy dỗ, chăm lo bữa ăn, giấc ngủ cho các cháu, hết ngày lại dẫn học trò về trở lại nhà.
Cô giáo Cao Thị Ánh, Hiệu trưởng Trường Mầm non Lâm Hóa cũng chia sẻ: "Các cháu mầm non ở Lâm Hóa rất thích đi học bởi đến lớp được các cô cho ăn cơm no, được uống sữa, ăn bánh, chứ ở nhà thì chẳng có, nhiều lúc còn bị đói. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, các cô giáo đều phải nỗ lực và bám bản, bám dân, chăm lo cho học trò".
Cũng theo cô Ánh, ngoài nhiệm vụ chuyên môn hằng ngày, các cô giáo tại Trường Mầm non Lâm Hóa còn thường xuyên vận động, kết nối với các nhà hảo tâm, các tổ chức xã hội thực hiện các chuyến thiện nguyện về điểm trường để giúp đỡ các cháu có cuộc sống no đủ hơn.
Ngày 20/11, với giáo viên miền xuôi, sẽ có những lời chúc, bông hóa chúc mừng của học trò, của phụ huynh, nhưng đối với giáo viên cắm bản thì đó là một điều xa xỉ. Với những giáo viên nơi đây, nụ cười mỗi ngày của học trò, nhìn thấy các em được sống vui tươi, khỏe mạnh học tập là món quà ý nghĩa, vô giá nhất trong ngày 20/11 và cho sự nghiệp gieo chữ nơi vùng xa, biên giới.
99 nhà giáo trẻ tiêu biểu được Trung ương Đoàn vinh danh Tối 19/11, T.Ư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức lễ tuyên dương "Nhà giáo trẻ tiêu biểu" cấp trung ương lần thứ 2 - năm 2020. Đây là giải thưởng do Ban Bí thư T.Ư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trao tặng hằng năm vào dịp Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, dành cho các giáo viên, giảng viên có quốc tịch...