Cô giáo hết lòng vì học trò nghèo vùng cao
27 năm trong nghề cũng là ngần ấy năm cô giáo Nông Thị Huyền, giáo viên điểm trường thôn Lũng, Trường tiểu học Khánh Xuân, huyện Bảo Lạc (Cao Bằng), bám các điểm trường, mang con chữ đến từng học sinh, từng bản làng vùng cao.
Sự nỗ lực của cô Huyền cùng các thầy giáo, cô giáo gắn bó với điểm trường đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số.
Cô giáo Nông Thị Huyền trong giờ lên lớp.
Những ngày này, thời tiết khá lạnh. Từ Trường tiểu học Khánh Xuân, thầy giáo Lãnh Văn Quanh, Phó Hiệu trưởng nhà trường dẫn chúng tôi vào điểm trường thôn Lũng mất khoảng hơn bốn giờ đồng hồ. Đường vào điểm trường quanh co, uốn lượn, nhiều đá cục và khó đi. Thầy Quanh cười chia sẻ: Với giáo dục vùng cao, chuyện vượt núi, rừng đến trường, đến lớp như là cơm bữa. Nhưng có tới 27 năm gắn bó với các điểm bản vùng cao như cô Nông Thị Huyền có lẽ không nhiều người làm được.
Video đang HOT
Cô giáo Nông Thị Huyền (dân tộc Tày) vừa tan giờ học, cho biết, điểm trường thôn Lũng có năm lớp, bảy giáo viên và 65 học sinh. Do quanh khu vực đều là núi đá vôi, điểm trường luôn thiếu nước, trong khi điện lưới thì chưa có. Mọi sinh hoạt của giáo viên và học sinh rất khó khăn. Phần lớn các thầy giáo, cô giáo đều phải tranh thủ soạn bài vào ban ngày, sau khi tan học. Cô Huyền đã năm lần luân chuyển công tác tại các điểm trường. Mỗi điểm trường có đặc điểm riêng nhưng đều là những điểm ở bản làng vùng cao heo hút, cơ sở vật chất thiếu thốn, học sinh phải băng rừng đi học, trong khi cha mẹ học sinh chưa quan tâm đến việc học của con em mình.
Suốt những năm trong nghề, cô Huyền không thể nhớ hết những ngày cùng đồng nghiệp lặn lội đến các thôn, bản để tuyên truyền, vận động học sinh không bỏ học giữa chừng. Rồi không ít câu chuyện rơi nước mắt của học trò nghèo, kiên trì tới lớp, mùa đông giá rét, chỉ mặc chiếc áo mỏng vừa học vừa run. “Dù dạy học trong điều kiện khó khăn, vất vả nhưng sự hồn nhiên, vô tư của các em học sinh và tình cảm chan hòa, gần gũi của đồng bào dân tộc đã luôn sưởi ấm tình yêu nghề của giáo viên”- cô Huyền chia sẻ. Trong công tác chuyên môn, cô Huyền luôn tích cực trau dồi kiến thức, chịu khó nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo để đưa ra phương pháp giảng dạy dễ hiểu, giúp học sinh nắm chắc kiến thức. Những em có hoàn cảnh khó khăn cô luôn ân cần, vỗ về chỉ bảo, coi như con mình. Trong công việc cũng như trong cuộc sống, bản thân cô Huyền luôn gương mẫu và thực hiện tốt nhiệm vụ của người cán bộ giáo viên, luôn tích cực tham gia mọi phong trào và hoạt động của nhà trường. Để nâng cao chất lượng giáo dục, cô Huyền cùng các thầy giáo, cô giáo không ngừng tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp, tham khảo tài liệu, sách báo. Với sự cố gắng và sự nhiệt huyết với nghề, hằng năm, số học sinh đi học chuyên cần ở các điểm trường đều tăng.
Nói về người đồng nghiệp của mình, cô giáo Đoàn Thị Nguyệt, điểm trường thôn Lũng chia sẻ: “Với giáo viên vùng cao chúng tôi, chuyện vượt khó bám trường, bám lớp không còn xa lạ. Nhưng hơn 27 năm liền xa nhà, bám trường, bám lớp, gắn bó với học sinh như cô giáo Huyền thì thật đáng khâm phục. Cô giáo Huyền luôn là tấm gương để cho các cô giáo vùng cao noi theo”.
MINH NGHĨA
Theo nhandan
Chuyển biến trong giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi
Trong những năm qua, hoạt động giáo dục và đào tạo (GD và T) vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS và MN) đã có những chuyển biến đáng kể.
Hệ thống giáo dục chuyên biệt bao gồm trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT), trường phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT), trường dự bị đại học được quan tâm đầu tư, xây dựng ngày càng khang trang, bảo đảm đủ điều kiện để từng bước nâng cao chất lượng dạy và học.
Giờ tin học của học sinh Trường phổ thông dân tộc nội trú Tây Nguyên, TP Buôn Ma Thuột (ác Lắc). Ảnh: HỒNG THỦY
Theo Bộ GD và T, hiện nay, hệ thống trường chuyên biệt ở vùng DTTS và MN đã và đang khẳng định được vai trò trong việc tạo nguồn đào tạo cán bộ, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực; huy động tối đa học sinh trong độ tuổi tới trường, giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân lực ở vùng DTTS và MN. Cả nước hiện có hơn 3.600 trường chuyên biệt vùng DTTS và MN, trong đó có 315 trường PTDTNT, hơn một nghìn trường PTDTBT và 2.273 trường phổ thông có từ 30 học sinh bán trú trở lên.
Chất lượng giáo dục của các trường ngày càng tăng qua từng năm học. Riêng hệ thống trường PTDTNT có tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT đạt 90%, có hơn 50% số học sinh tốt nghiệp THPT và thi đỗ vào đại học, cao đẳng. Tỷ lệ học sinh đến trường tăng cao, học sinh lưu ban, bỏ học ngày càng giảm. Ngành giáo dục đã triển khai dạy tiếng DTTS trong nhà trường tại 22 tỉnh, thành phố với sáu thứ tiếng, gồm: Mông, Chăm, Khmer, Gia Rai, Ba Na, Ê ê. Công tác xóa mù chữ, tăng cường tiếng Việt cho học sinh vùng đồng bào DTTS được chú trọng. Nhiều chính sách ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục vùng đồng bào DTTS, vùng điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa được ban hành đã quan tâm đến nhiều mặt và nhiều đối tượng như trẻ em, học sinh, sinh viên, giáo viên và cơ sở giáo dục... Nhiều địa phương có chính sách hỗ trợ học phí và chi phí học tập cho học sinh, sinh viên người DTTS như: Cao Bằng, iện Biên, Quảng Trị, Gia Lai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Khánh Hòa, Quảng Ngãi, Quảng Nam, ồng Nai, ác Nông... Các chế độ, chính sách đối với cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh, sinh viên là người DTTS được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định. Qua đó đã khuyến khích công tác dạy và học, tạo sự bình đẳng trong giáo dục, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
ác Lắc là tỉnh có 47 dân tộc anh em cùng chung sống, tỷ lệ học sinh DTTS chiếm hơn 30% trong toàn ngành giáo dục. Vì vậy, nâng cao chất lượng cho học sinh DTTS cũng như triển khai thực hiện chế độ chính sách là việc được ngành GD và T cùng các cấp chính quyền địa phương đặc biệt quan tâm. Giám đốc Sở GD và T tỉnh ác Lắc Phạm ăng Khoa cho biết, tỉnh đã tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các trường, đặc biệt đầu tư cho hệ thống trường PTDTNT. ến nay toàn tỉnh có 6 trong số 16 trường PTDTNT đạt chuẩn quốc gia (trong đó có năm trường PTDTNT cấp huyện và một trường PTDTNT cấp tỉnh). Còn tại Hà Giang, tỷ lệ học sinh người DTTS chiếm hơn 80% tổng số học sinh trong độ tuổi đến trường. Cơ sở vật chất, trường, lớp học ngày càng được đầu tư xây dựng, đáp ứng nhu cầu dạy và học, góp phần nâng tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường. Tỉnh Bình Thuận là địa phương tích cực, chủ động triển khai đưa các chính sách vào cuộc sống, huy động nguồn lực hỗ trợ cho các đối tượng được hưởng chính sách. ồng thời chỉ đạo các sở, ban, ngành liên quan hướng dẫn các cơ sở giáo dục nghiên cứu văn bản, rà soát các đối tượng được hưởng chế độ chính sách... nhờ vậy, chất lượng giáo dục được nâng lên.
Tuy nhiên, hiện nay, hệ thống trường chuyên biệt ở vùng DTTS và MN đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập như: Cơ sở vật chất nhiều trường chưa đạt mức tối thiểu theo quy định, trang thiết bị chưa được đầu tư đồng bộ; chất lượng và hiệu quả đào tạo chưa cao; đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục nhiều nơi còn bất cập, năng lực sư phạm, khả năng tổ chức hoạt động giáo dục của một bộ phận giáo viên còn hạn chế. Một số chính sách, chế độ đối với hệ thống trường chuyên biệt ở vùng DTTS và MN chưa phù hợp.
Theo Giám đốc Sở GD và T tỉnh Bình Thuận Phan oàn Thái, nhìn chung, chất lượng học tập của học sinh DTTS và MN thấp hơn mặt bằng của học sinh toàn tỉnh. Nguyên nhân là do đặc thù từng vùng miền và ảnh hưởng của điều kiện kinh tế gia đình, số lượng học sinh DTTS có nhu cầu học trung cấp nghề ngày càng ít. Ý thức học tập của các em chưa cao, bên cạnh đó phụ huynh ít quan tâm đến việc học tập của con em. ại diện Sở GD và T tỉnh An Giang cũng chỉ ra rằng, cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên thực hiện công việc tại các trường chuyên biệt có thời gian và khối lượng công việc nhiều hơn so với các trường bình thường nhưng vẫn chưa được hưởng thêm chế độ nào.
heo Bộ trưởng GD và T Phùng Xuân Nhạ, phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực các DTTS là một trong ba khâu đột phá chiến lược của đất nước. Tuy nhiên, công tác này đòi hỏi những cách tiếp cận mới, bảo đảm thiết thực và hiệu quả. Trong đó, chú ý điều chỉnh chương trình đào tạo cho học sinh vùng DTTS và MN; chính sách phân luồng, hướng nghiệp; đổi mới mô hình trường dân tộc nội trú, bán trú theo hướng tăng cường hòa nhập, nâng cao chất lượng tuyển sinh, chất lượng đào tạo; thay đổi hình thức hỗ trợ cho học sinh DTTS và MN phù hợp từng vùng miền... Thời gian tới, Bộ GD và T sẽ kiến nghị ban hành 11 chính sách mới và sửa đổi, bổ sung ba nhóm chính sách hiện hành nhằm tạo điều kiện cho GD và T vùng DTTS và MN phát triển thuận lợi và thực chất hơn.
QUỲNH NGUYỄN, THÙY DƯƠNG
Theo Nhân dân
Trà Vinh: Tiếp tục xây dựng mô hình điểm về tăng cường tiếng Việt Sở GD&ĐT Trà Vinh xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Đề án Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số năm học 2019-2020. Ảnh minh họa/internet Kế hoạch đặt mục tiêu nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt, bảo đảm cho trẻ em mầm non, đặc biệt là trẻ năm tuổi...