Cô gái Pháp thích thú với nước vối
Hai lần, ba lần, tôi lấy thêm bát nước đầy và dù đã túa mồ hôi ướt đẫm, tôi sung sướng uống nước vối nóng.
Nhiều khi vào chiều hè nóng bức, từ những cửa sổ mở toang ở văn phòng của tôi vang lên tiếng rao của những chú bán nước chè; một tiếng rao ngắn:”Nước vối! Nước vối!” lặp lại đều đặn, từ xa tới rồi đi qua; hoặc là một mẩu bài ca uốn theo một khúc đoản âm: “Ai nước vối nóng, ăn thuốc nào?” .
Bấy giờ, khi tiếp tục công việc, tôi hình dung bóng dáng điển hình của một bé con đầu tóc bù xù, bận bộ đồ ít nhiều rách rưới đang một tay đung đưa ấm nước to bằng đất nâu, bọc bằng những miếng giẻ, còn tay kia là một cái rổ nhỏ đựng chiếc điếu cày và những miếng trầu đã têm.
Tôi biết rằng một bác phu xe sẽ chẳng mấy chốc ra hiệu gọi: “Nước!” và rồi với một xu, ngồi xổm trên vỉa hè, bác ấy sẽ uống từng hớp nước chè chát sụp soạt rồi rít một hơi điếu cày, nhấn nhá thật lâu luồng khói thuốc trước khi miễn cưỡng nhả nó ra. Sau đó, vươn vai, đội lại cái mũ mà bác đã lột ra để quạt, bác trở lại giữa hai càng xe, đỡ mệt rồi… Những giây lát ngắn ngủi được nghỉ ngơi trong cuộc đời bạc bẽo, những thú vui bình dị của những “Nước vối! Nước vối!” bình dị!
Nước vối rõ ràng là thức uống lan tràn khắp Bắc Kỳ, được nấu từ những lá vối hoặc cây vối, bán khi còn xanh. Cây cao từ 8 đến 10 mét, hơi giống với cây khuynh diệp và mọc nhiều nhất ở vùng trung du, quanh nhà ở. Đôi khi người ta thêm vào lá vối những lá cây long não (rễ hương).
Như tất cả mọi trà thứ thiệt, nước vối phải được giữ sao cho thật nóng. Những chú bé con ngoài phố quấn ấm chè bằng những mảnh vải, còn các bà bán nước ngồi ở các ngã tư hoặc dọc theo những con đường quê, bà chủ quán bình dị dưới một cái mái bằng lá gồi giữ nóng cho các vại nước vối trong một cái thúng to nhồi bông, lá cây hoặc vỏ bào theo nguyên tắc nồi ủ của Na Uy. Họ múc nước bằng một cái gáo làm bằng nửa vỏ quả dừa có cán tre.
Nước vối là thứ nước uống bình dân giải nhiệt tốt của người An Nam. Ảnh: Vienydhdt.
Ơn trời trong các buổi đi chơi ngày chủ nhật, đã bao lần tôi dừng chân ở những cái quán ấy, và những kỷ niệm đẹp nhất của tôi với những cuốc xe đạp luôn gắn với các chặng nghỉ dễ chịu, nơi tôi thấy nước vối nóng có màu rượu vùng Chartre.
Tôi nhớ một buổi chiều sau khi đạp xe xem xét vùng Yên Viên ở ngoại vi Hà Nội, xe tôi không may bị “nổ lốp” buộc phải đi bộ vài cây số. Trời vẫn rất nóng dẫu Mặt Trời đã lặn; khi đã đi rất lâu trên con đường hoang vắng lại khát nước đến nỗi thấy khó thở, đột nhiên tôi thấy dưới bóng cây bàng, một mái nhà lợp tranh, một cái ghế dài và hai bà già hiền lành đang thanh thản nhai trầu. Họ cười khi nhìn thấy tôi, hỏi tôi ở đâu đến và nhiều thứ khác nữa mà tôi không hiểu.
Video đang HOT
Hai lần, ba lần, tôi lấy thêm bát nước đầy và dù đã túa mồ hôi ướt đẫm, tôi sung sướng nốc nước vối nóng trong khi họ cứ dông dài váng cả tai. Họ có vẻ rất thú vị về vị khách không chờ đợi này, trong khi tôi tự hỏi họ kỳ vọng bán cho ai những món hàng bình dị trên con đường hoang vắng này: vài quả dưa hấu vàng, một cái thẩu [đựng gì không biết], hai lọ kẹo và những gói thuốc lào.
Khi lên đường trở về, nắng bắt đầu tắt, dường như đã bớt nóng và sau đó một lúc, tôi ngoái lại để nhìn lần cuối cái quán nhỏ đáng mến, nó đã biến mất, có lẽ đơn giản vì con đường uốn quanh co; thế nhưng trong vẻ huyền diệu của hoàng hôn tôi tưởng tượng rằng hệt như trong các truyện cổ An Nam, có hai bà tiên đã rời bỏ trong chốc lát vương quốc của Ngọc Hoàng để tới con đường hoang vắng này, dưới vẻ ngoài của hai bà già tốt bụng, bán nước chè cho một nữ khách cô đơn.
Miền Bắc đầu thế kỷ 20 qua mắt cô gái Pháp
Hilda Arnhold như một người Việt Nam thực thụ, cảm nhận tinh tế, tiến bộ về cảnh vật, con người và phong tục nước ta đầu thế kỷ 20 trong tác phẩm 'Bắc Kỳ phong cảnh và ấn tượng'.
Sách Bắc Kỳ phong cảnh và ấn tượng được viết và xuất bản đầu thế kỷ 20. Tác giả là Hilda Arnhold, một cô gái Pháp đã sống, chứng kiến và cảm nhận đầy tinh tế, với cái nhìn rộng mở về mảnh đất phương Đông. Những dòng thông tin càng trở nên gần gũi, sống động hơn qua phần minh họa tranh của họa sĩ tài danh Mạnh Quỳnh.
Sách Bắc Kỳ phong cảnh và ấn tượng của Hilda Arnhold. Ảnh: Đình Ba.
Ấn tượng với... muỗi
Ghi chép về mảnh đất Việt Nam đầu thế kỷ 20, Hilda Arnhold hướng cảm nhận trước nhất của mình đối với cảnh vật nơi đây. Miêu tả của cô làm nổi bật những đặc trưng riêng có của xứ sở phương Đông qua thời tiết bốn mùa, cảnh đồng quê quen thuộc của những con đê, dòng sông, ruộng lúa.
Ghi dấu đậm nét có lẽ là cảnh ngập lụt thường thấy hàng năm ở Bắc Kỳ gây ngỡ ngàng cho những người phương Tây khi mà ở Hà Nội "chỉ trong mấy phút cống rãnh đã biến thành suối chảy xiết và dưới tất cả mái che, người qua đường đã ướt hết tìm cách trú ẩn".
Với cô gái đến từ đất nước hình lục lăng, xứ sở ôn đới, ấn tượng để lại trong cảm nhận của Hilda Arnhold rất cụ thể về đất nước miền nhiệt đới Việt Nam. Trong đó có nhiều chi tiết thú vị về "những con muỗi", "những cuộc du hành đẹp nhất" và "những giấc mơ".
Riêng với vấn đề muỗi, khi đọc Bắc Kỳ phong cảnh và ấn tượng, độc giả không chỉ sống lại ký ức một thời xa xưa, mà có thể bắt gặp ngay cảnh ấy ở những miệt đất heo hút miền Tây Nam Bộ hiện nay. Hilda Arnhold hẳn đã rất ám ảnh với những sinh vật có cánh bé tí này, nên có những đặc tả chân thực và kỹ lưỡng.
Muỗi không chỉ vo ve phá giấc ngủ, hút máu người, loài côn trùng này còn gây bao khó khăn trong phương cách phòng chống nó. Không chỉ đơn thuần ở việc mắc màn, riêng việc chọn các loại hương vòng chống muỗi đã là một cuộc đấu tranh thương hiệu để tìm ra loại tốt nhất.
Những nhãn hiệu hương "Con Voi", "Con Dơi", "Sư Tử"... có những thông tin quảng cáo hấp dẫn, nhưng không dễ gì đạt hiệu quả tối ưu như quảng cáo, bởi thay vì đốt được trong 7, 8 tiếng thì khoảng 4 giờ đồng hồ đã tàn hương và lúc đó, nạn nhân trong giấc ngủ mơ màng, phải chống chọi với những chiếc máy bay bé tí kia.
Trong thiên bút ký về Bắc Kỳ cách nay gần một thế kỷ, tác giả còn có những đặc tả thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về mảnh đất Hà Nội nghìn năm văn vật với những địa danh cụ thể như Yên Sở, Hồ Tây...
Dịch giả Đặng Anh Đào đã phải thốt lên ngạc nhiên xen lẫn sự thán phục về Hilda Arnhold: "Tôi thầm cảm phục tình cảm mà tác giả đã dành cho Hà Nội, bởi phải yêu nó đến thế nào, hiểu nó đến thế nào thì mới có thể mô tả nó cụ thể và giàu cảm thông đến thế: tiếng động trong đêm, tiếng muỗi vo ve, tiếng guốc khua dưới phố, tiếng chuông xe đạp leng keng, tiếng rao hàng của những gánh hàng rong vào các thời điểm khác nhau trong ngày, cảnh náo động trong những dịp lễ tết và những hành trình tới các chùa chiền ven Hà Nội".
Tranh minh họa của họa sĩ Mạnh Quỳnh cho bài "Câu chuyện về hạt gạo" trong sách Bắc Kỳ phong cảnh và ấn tượng. Ảnh: Đình Ba.
Ẩm thực An Nam tinh tế
Ngay cả đời sống, phong tục của đất Việt cũng được góc nhìn của Hilda Arnhold phát hiện ra những đặc trưng cố hữu. Chỉ riêng ẩm thực, tác giả phát hiện món nước vối là thứ nước uống quen thuộc, thuốc lào là thứ thuốc hút của lớp bình dân thị thành. Còn món cà phê tí tách từng giọt, cũng đã trở nên phổ biến, thậm chí là xuất hiện trong những quán ăn nhỏ.
Sự du nhập món Pháp vào ẩm thực Việt cũng được Hilda Arnhold lưu ý. Nếu như từ nghìn đời nay, hạt gạo nấu thành cơm, đồ thành xôi là loại lương thực truyền thống của dân Nam, thì đầu thế kỷ 20, món Pháp đã có ở đất này với đủ loại, được Hội chợ lần đầu tiên ở Hà Nội năm 1920 quảng cáo theo kiểu liệt kê chi tiết như thế này:
"Thủ lợn rừng hầm với hạt dẻ cười
Thịt công nấu đông
Bánh patêsô nhỏ kiểu Cussy
Cá sói vịnh Hạ Long kiểu mới
Phi lê bò kiểu Talleyrand
Pa-tê gan ngỗng kiểu Châtelaine
Xúp đậu Hà Lan..."
Cảm nhận về ẩm thực của đất nước miền nhiệt đới, Hilda Arnhold dành sự trân trọng khi nhận xét: "Ẩm thực An Nam không những không tầm thường chút nào, mà nó còn bao gồm một số món ăn cực kỳ tinh tế, chưa kể lợi thế nghiêm chỉnh về mức độ tiện dụng".
Bước sang lĩnh vực phong tục tập quán của người Nam, Hilda Arnhold như một người An Nam thực thụ khi cảm nhận về Tết, lễ hội của người Việt. Cảnh xin chữ, cho chữ ngày Tết, các loại bánh Tết như bánh khảo, bánh đậu xanh, bánh khảo hay ngũ quả trưng bày đều được tác giả điểm qua.
Sắc hoa đào thì "phố sông Tô Lịch là một vườn hoa đào: những cây hoa nhỏ được trồng đặc biệt trên những cánh đồng vùng ven hồ Tây và không có chúng thì ngày Tết sẽ không vui mấy".
Vẫn trong không khí Tết Nguyên đán, món bánh chưng với lá dong gói ngoài, với gạo nếp, đỗ xanh và thịt lợn được Hilda Arnhold lột tả để độc giả hiểu về loại bánh truyền thống của người Việt trong ngày đầu năm mới. Những nghi lễ cúng, cây nêu trừ tà hay bữa ăn ngày Tết... cũng được miêu tả chi tiết kèm kết luận về ý nghĩa những ngày thiêng liêng này: "Niềm tin vào cuộc đời luôn được đổi mới mà đôi khi họ rất cần trong một đời sống thường khó khăn và bấp bênh".
Bình dị quê mình Con chưa thấy nơi nào bình dị cho bằng quê mình mẹ ạ. Nụ cười con rực rỡ như đóa hướng dương dưới nắng mai hồng, giọng con hồ hởi thiết tha khoe với mẹ sau gần một tuần nghỉ hè về quê với ông bà. Lòng mẹ cũng rưng rưng xúc động. Bởi đây cũng là điều bấy lâu mẹ luôn khắc...