Có bệnh viện mới đào tạo được Y khoa
Ngoài mơ ước, học lực ở mức khá 8/10, tôi bước chân vào Đại học Y và nhận ra những điều rất quan trọng khác, không thể thiếu để giúp sinh viên trở thành thầy thuốc.
Lịch sử tất cả các Đại học Y khoa ở mọi đất nước đều được xây dựng trên nền tảng bệnh viện, mà phải là bệnh viện đa chuyên khoa, có tầm kiểm soát bệnh tật rộng lớn.
Không gian Y khoa – Bệnh viện Đại học
Bệnh viện phải đủ các chuyên khoa chuyên sâu cũng như nội khoa, ngoại khoa, sản khoa, nhi khoa là bốn khoa chính, các chuyên khoa mắt, tai mũi họng, răng hàm mặt, lao, da liễu, đông y, các khoa chẩn đoán hình ảnh, khoa xét nghiệm, khoa vi sinh y học, truyền nhiễm, khoa tạo hình…
Trong 4 khoa chính lại có các chuyên khoa sâu hơn như nội khoa có nội tim mạch, nội hô hấp, nội tiêu hóa, nội thần kinh, nội lây, nội nội tiết…, khoa ngoại cũng phải có ngoại chấn thương, ngoại thần kinh, ngoại cột sống, ngoại tiêu hóa, ngoại tiết niệu, ngoai nhi, ngoại tim mạch, ngoại hô hấp…
Một buổi thực hành của sinh viên y khoa. Ảnh: T.iền Phong.
Bệnh viện phải có trước trường đại học Y, thật vậy ở nước ta, trước khi có Đại học Y Hà Nội, đã có Nhà thương Bạch Mai, Nhà thương Phủ Doãn, Nhà thương Đồn Thủy, sau đó mới mở Đại học Y Dược.
Chỉ có trong môi trường bệnh viện, mới thực hiện được đào tạo Y khoa cho các sinh viên được, hoạt động hằng ngày của bệnh viện tự thân nó đã có ý nghĩa đào tạo cho những ai muốn học.
Quá trình các sinh viên đến bệnh viện sẽ được chứng kiến các bệnh nhân đến khám bệnh, nằm điều trị, cấp cứu, các bệnh nhân phải mổ, các bệnh nhân nặng quá dẫn đến t.ử v.ong ngoài tầm giúp đỡ của y khoa, các hoạt động hội chẩn, trao đổi kinh nghiệm, nhất là hoạt động phẫu tích x.ác c.hết, tìm nguyên nhân c.hết, tìm tổn thương những bệnh mà trước do không chẩn đoán được.
Ngoài ra còn có những hoạt động pháp lý trong y khoa, tôn trọng quyền bệnh nhân, giải thích cho bệnh nhân trước khi quyết định các phẫu thuật, thủ thuật. Nếu không có bệnh viện, thử hỏi những điều trên thực hiện ở đâu?
“Nếu chỉ có giảng đường và phòng thí nghiệm, mà không có bệnh viện, thì chỉ đào tạo ra người quan sát y khoa, chứ không thể đào tạo được thầy thuốc”
TS.BSĐỗ Hoàng Dương
Video đang HOT
Bệnh viện có hoạt động đào tạo y khoa phải là bệnh viện đại học (Hospital University), nó phải có đội ngũ các thầy thuốc giỏi chuyên môn, ham nghiên cứu, chinh phục các đỉnh cao thách thức, nó phải là một cộng đồng thống nhất, hữu cơ, không phải các mảnh ghép đơn thuần, nó phải có tính kế thừa và duy trì truyền thống để tạo nên trường phái, tạo nên lịch sử y khoa.
Đặc biệt, bệnh viện đại học và trường đại học Y khoa phải tạo được chỗ đứng trong lòng bệnh nhân – đây là điều kiện tiên quyết, phải tạo ra ngay từ đầu bằng cách làm hàn lâm, đàng hoàng, nhỏ nhưng phải tinh hoa.
Bệnh viện đại học phải tự thân hoàn thiện, tự xây dựng mẫu hình để còn làm gương cho các bệnh viện khác, trong quan niệm y giới, bệnh viện đại học là bệnh viện kiểu mẫu, y thuật, y đạo, y đức luôn luôn mẫu mực.
Đặc biệt về chuyên môn, nó phải được xây dựng bằng những giá trị cốt lõi, không phụ thuộc vào sự bợ đỡ của người khác. Sự tồn tại của bệnh viện đại học nhờ sự tự tín nhiệm của cộng đồng, nếu không có nó hoạt động đào tạo y khoa dựa trên điều gì ?
Ở Việt Nam, sau khi có các Nhà thương, chính quyền mới cho mở trường Y khoa Đông Dương, mà giảng viên 100% là các giáo sư Y khoa giỏi, trẻ từ Pháp sang xây dựng trường, giảng dạy và thực hành y khoa tại các bệnh viện thực hành, truyền thống đó đến nay hơn 100 năm vẫn được duy trì, các giáo sư của Đại học Y Hà Nội vẫn là những thầy thuốc giỏi của các bệnh viện.
Không gian đào tạo y khoa
Sự gắn bó cơ hữu đã được chứng minh trong lịch sử giữa bệnh viện đại học và trường đại học Y khoa.
Không gian Y khoa – Bệnh viện đại học là giá trị cốt lõi khác biệt nhất giữa ngành Y và ngành khác, là t.iền đề cơ bản nhất cho việc đào tạo y khoa. Tuy nhiên, hoạt động này còn cần đến nơi giảng các bài giảng về lý thuyết, về học thuật, cũng vô cùng cần đến hệ thống các phòng thí nghiệm để thực thi hai nhiệm vụ và giúp sinh viên các bài thực tập y học cơ sở, để họ hiểu kỹ các bài lý thuyết và là nơi các giảng viên nghiên cứu các ý tưởng của mình nhằm giúp chữa bệnh tốt hơn. Cho nên những vấn đề đó gọi là không gian đào tạo y khoa.
Giảng đường đại học Y khoa là nơi khá khác biệt với những đại học khác, những ai đã từng học Y đều không thể quên giảng đường, nơi hằng ngày các sinh viên đến học lý thuyết do các thầy thuốc giảng bài, buổi tối chúng tôi lại tự lên ngồi nghiêm túc, tự học, không cần ai nhắc nhở, không lên nhanh mùa ôn thi không còn chỗ mà học, giảng đường Y khoa là một phần ký ức các thầy thuốc.
Hệ thống các phòng thí nghiệm, với hàng nghìn kính hiển vi, quang học, hiển vi điện tử, các hệ thống dụng cụ thí nghiệm bắt buộc phải có nguồn gốc châu Âu, không thể là đồ rẻ t.iền. Phòng thực tập cho môn giải phẫu với hàng nghìn mô hình, tranh ảnh, tiêu bản x.ác n.gười thật, x.ác n.gười thật cho sinh viên phẫu tích, có máy chiếu, phim video…
Phòng thực tập cho các môn mô học, vi sinh vật y học, sinh hóa, sinh lý học, ký sinh trùng, giải phẫu bệnh, sinh lý bệnh, dược lý, pháp y…Còn nhiều nữa, tôi không thể nhớ hết được.
Hệ thống thông tin và thư viện là cực kỳ quan trọng, trong đó thư viện ngoài các sách kinh điển cho sinh viên học là chủ yếu, còn cần một hệ thống các tạp chí y khoa chuyên ngành trên thế giới như lancet, Circulation, annales de surgery, molecules…
Hiện nay, các tạp chí này đã số hóa, nên có thể truy cập vào để đọc các tài liệu khi cần, và chi phí cho mua các tạp chí đó không hề nhỏ.
Học ngành Y không có cả thời gian nghỉ Tết “Tôi học đại học Y khoa 6 năm liên tục không có ngày nghỉ, kể cả dịp hè và Tết, học chuyên khoa 2 năm, nghiên cứu sinh 5 năm, sau đó mới bắt đầu hành nghề”, TS Đỗ Hoàng Dương viết.
Nhiều sự cố y khoa từ sai sót chuyên môn Một thực tế là nhiều năm qua, đầu vào đào tạo ngành y, dược có sự chênh lệch lớn giữa các trường công lập và ngoài công lập.
Theo TS.BS Đỗ Hoàng Dương/Tiền Phong
Thầy trò trường Y giỏi nhất nước đang lo lắng điều gì?
Chiều 26/11, thầy và trò của trường có điểm đầu vào và chất lượng đào tạo được đ.ánh giá đứng đầu cả nước - ĐH Y Hà Nội - đã trao đổi băn khoăn, lo lắng trong quá trình dạy và học.
Góc nhìn của thầy
GS.TS Nguyễn Lân Việt chia sẻ "Tôi không bi quan về chương trình đào tạo hiện tại của trường. Hầu hết bác sĩ được đào tạo từ ĐH Y Hà Nội đều là những người rất khá, không thua kém".
Tuy nhiên, ông Việt cũng đưa ra những so sánh trong việc đào tạo trước đây với hiện nay: "Các thế hệ trước thường được giáo sư giảng dạy về triệu chứng học. Bây giờ, phần này thường do giảng viên trẻ đảm nhiệm, có những người còn chưa nắm kỹ. Ngày xưa, thời gian của các thầy cô chủ yếu dành cho giảng dạy. Bây giờ, các thầy cô còn đi mổ, làm đủ thứ. Các thầy cô cũng cần nhìn lại xem mình đã dành đủ thời gian cho sinh viên chưa".
Thí sinh dự thi vào Trường ĐH Y Hà Nội. Ảnh: VietNamNet.
Ông Việt cũng nhận xét, chương trình học của trường đang dồn nén một khối lượng lý thuyết lớn lên sinh viên. "Bộ môn nào cũng bảo cần. Chỉ đến khi thầy cô có con theo học tại trường, thấy con mệt mỏi vì học mới thông cảm cho sinh viên".
Về thời lượng học lâm sàng, theo ông Việt, cũng cần xem xét lại. "Học y là học nghề mà học lâm sàng không nhiều thì đòi sinh viên phải giỏi là bất cập".
Cũng theo ông Việt, sinh viên y có kỹ năng giao tiếp chưa thật sự tốt. Việc giảng dạy lâm sàng cũng cần thay đổi. "Không nên tiếp tục chuyện mấy chục sinh viên cùng gõ lên lồng ngực một người bệnh để kiểm tra. Trước nay có cảnh thầy giảng, trò ghi chép. Nhưng nếu sinh viên đọc trước, trình bày theo nhóm, thầy đóng góp ý kiến, tức là sinh viên phải tự học, thì tốt hơn".
Còn PGS Phạm Nhật An, Bộ môn Nhi, cho rằng, quá trình đổi mới sẽ không dễ dàng. Ví dụ như việc chuyển đổi phương pháp học, lấy sinh viên làm trung tâm, "nhưng một lớp 200 sinh viên thì không cách gì lấy sinh viên làm trung tâm được".
Ông An cũng cho rằng, nếu như trước đây lấy bệnh viện làm nơi học chính, thì bây giờ cần xem xét cả phương thức của một số trường đại học y lớn của thế giới, cộng đồng cũng sẽ là nơi học tập của sinh viên y.
Đồng quan điểm với ông Việt, ông An nhận định chương trình hiện tại nặng quá, phải giảm bớt. Và dù đầu vào của nhà trường rất tốt, nhưng sinh viên cần khắc phục hai điểm yếu là ngoại ngữ và kỹ năng làm việc nhóm.
"Có hai hướng đổi mới đào tạo để không lạc hậu. Thứ nhất là cập nhật các chương trình đào tạo của thế giới, và thứ hai xây dựng bản thân để thế giới công nhận" - PGS. TS Nguyễn Hữu Ước phân tích.
Ông Ước cho rằng nên dựa vào một mô hình đã được thế giới công nhận để theo, bởi "nếu chúng ta tự lực rồi bảo chúng ta giỏi mà không ai công nhận thì không được".
"Các vấn đề cần tập trung đổi mới, và đổi mới liên tục, là xây dựng nội dung đào tạo có chuẩn đầu ra phù hợp; Xây dựng chương trình đào tạo để sinh viên phải tự tư duy, tự thực hành nhiều hơn. Người thầy cũng phải nhìn lại năng lực của mình, về chuyên môn, công nghệ thông tin, kỹ năng giảng dạy, độ nhiệt tình..., từ đó xây dựng lộ trình để người thầy cũng phải thay đổi" - ông Ước khẳng định.
Sinh viên muốn gì?
Ngồi lẫn giữa sinh viên, PGS Phạm Trọng Văn, Bộ môn Mắt, cho biết, ông xuống đây để lắng nghe ý kiến của các em. "Sinh viên bảo học nhiều quá, nhiều môn không cần thiết như kinh tế y tế, y tế công cộng. Các em muốn tập trung học chữa bệnh, những môn khác ra trường nếu cần sẽ học bổ sung sau.
Sinh viên cũng nhận xét một số bộ môn, đặc biệt bộ môn cơ sở, nhiều thầy giảng bài như đọc thuộc lòng. Nếu giảng thế các em ở nhà mở sách ra tự đọc cũng được. Thời khoá biểu xếp cũng chưa thực sự hợp lý".
Sinh viên Tăng Văn Dũng, lớp Y5B, cũng thay mặt bạn bè nói lên ý kiến. Sinh viên nói tới thực trạng khi học lâm sàng có những khoa nhỏ nhưng tới 60 sinh viên vào.
"Lượng sinh viên đông hơn bệnh nhân nên để học tốt là khó. Chúng em cũng mong mỏi thầy cô thu xếp thời gian giảng lâm sàng nhiều hơn. Nhiều thầy cô chỉ có 20 - 30 phút bình luận một ca bệnh, rất khó để chúng em hỏi nhiều hơn và đưa ra các tình huống khác nhau", Dũng nói.
Đáp lại những ý kiến này, PGS.TS Nguyễn Đức Hinh, Hiệu trưởng nhà trường, khẳng định, công tác đào tạo của trường phải đổi mới, và đổi mới liên tục.
Ông Hinh đưa ra các vấn đề mà trường sẽ làm ngay. Thứ nhất là giảm tải chương trình học. Thứ hai bố trí lại việc học lâm sàng". Ông Hinh cũng nhấn mạnh: "Sinh viên phải chủ động học. Như hiện nay, các bạn vẫn thể hiện việc học còn thụ động".
Về việc sử dụng chương trình nhập khẩu, ông Hinh cho biết, có những nơi nhập chương trình về với giá 1 triệu USD, và bỏ ra thêm khoảng 10 triệu USD để Việt hoá. "Đó là điều không tưởng đối với trường này. Nhưng trường sẽ nhận hỗ trợ của nước ngoài nếu được. Nếu mua được chương trình tốt sẽ mua, dù có thể chỉ áp dụng được 50, 60% nhưng vẫn còn hơn là tự ngồi vẽ ra...".
Theo Ngân Anh/VietNamNet
Học ngành Y không có cả thời gian nghỉ Tết "Tôi học đại học Y khoa 6 năm liên tục không có ngày nghỉ, kể cả dịp hè và Tết, học chuyên khoa 2 năm, nghiên cứu sinh 5 năm, sau đó mới bắt đầu hành nghề", TS Đỗ Hoàng Dương viết. Năm nay tôi đã tốt nghiệp đại học Y khoa 20 năm. Sắp đến mùa tuyển sinh vào đại học, rất...