Chuyện về những hòn gạch đầu tiên của nền tài chính – t.iền tệ VN
Lạm phát của Việt Nam đang được kiềm chế trong phạm vi dưới 7%, nhưng những ai theo dõi diễn biến của nền kinh tế hẳn vẫn còn nhớ thời kỳ lạm phát “phi mã” lên trên 700%…
Nguồn vốn giá rẻ đang “chảy” vào nền kinh tế.
Ngân hàng Nhà nước, t.iền thân là Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, vừa tròn 62 năm phát triển và trưởng thành. Từ một hệ thống ngân hàng bao cấp độc quyền, phát hành giấy bạc Ngân hàng, thu hồi giấy bạc Tài chính…; đến nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc cả lượng và chất, xứng danh là mạch m.áu của nền kinh tế.
Nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Cao Sỹ Kiêm khi đề cập tới thành tựu của ngành ngân hàng trong 62 năm qua đã nhấn mạnh tới 3 điểm nổi bật. Theo ông Cao Sỹ Kiêm, ngành ngân hàng đã hoàn thành sứ mệnh hoạt động t.iền tệ, tín dụng, giúp đời sống người dân được cải thiện qua từng thời kỳ, kể cả trong kháng chiến và thời kỳ đổi mới.
Ngoài ra, ngành ngân hàng cũng đã góp phần ổn định sức mua của đồng t.iền. “Theo đ.ánh giá của tôi, hoạt động ngành ngân hàng thời gian qua tương đối an toàn. Trong điều kiện nền kinh tế trì trệ, ngành ngân hàng đã có những đóng góp lớn trong việc kiềm chế lạm phát phi mã (có lúc lên tới trên 700%/năm). Và cũng qua 62 năm phát triển, hệ thống ngân hàng ngày càng trưởng thành, đáp ứng được yêu cầu phát triển và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới”.
Vào những năm sau giải phóng, do hậu quả của chiến tranh kéo dài, cộng với việc duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã khiến kinh tế nước ta rơi vào tình trạng suy thoái nặng nề, bội chi ngân sách ở mức cao trong nhiều năm. Theo đó, lạm phát có lúc ở mức 3 con số (Lạm phát năm 1986: 774,7%, năm 1987: 231,8%, năm 1988: 393,8%) làm cho các cân đối vĩ mô mất cân đối nghiêm trọng và kéo dài, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống nhân dân.
Ông Cao Sỹ Kiêm, nguyên là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trong vòng gần 10 năm chia sẻ: Một trong những điểm nhấn của ngành ngân hàng thời kỳ “hậu chiến tranh” là đã góp phần đưa lạm phát “phi mã” từ trên 700% xuống 5% – 6% vào những năm 1990. Và để “hạ nhiệt” lạm phát, chính sách của Ngân hàng Nhà nước thời kỳ đó đã áp dụng lãi suất thực dương, tăng lãi suất t.iền gửi lên 20%/tháng, tương đương 240%/năm.
Cùng với việc tăng mạnh lãi suất t.iền gửi để “hút” t.iền về, được Chính phủ cho phép, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định cho vay ra với lãi suất chỉ 10%/năm. Phần chênh lệch trên 200%/năm giữa lãi suất huy động và cho vay của ngân hàng được Nhà nước bù đắp. Do vậy, tốc độ gia tăng “phi mã” của lạm phát đã được đẩy lùi, về mức khoảng 5% – 6%/năm vào năm 1991, giúp các ngành nghề khôi phục sản xuất kinh doanh.
Và cũng kể từ đó, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách lãi suất thực dương, kết hợp sử dụng các công cụ gián tiếp với công cụ kiểm soát trực tiếp trong điều hành chính sách t.iền tệ; hình thành các thị trường t.iền tệ… Hiện tại, với lạm phát được kiềm chế ở phạm vi dưới 7%, mặt bằng lãi suất huy động của ngân hàng thương mại Nhà nước phổ biến không kỳ hạn từ 1% – 1,2%/năm, kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng khoảng 5% – 6,5%/năm, kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng khoảng 6,5% – 7%/năm, kỳ hạn trên 12 tháng khoảng 7,5% – 8%/năm.
Đối với nhóm ngân hàng thương mại cổ phần, lãi suất huy động phổ biến không kỳ hạn khoảng 1,2%/năm; kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng khoảng 6,5% – 7%/năm; kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng khoảng 7% – 8%/năm, kỳ hạn trên 12 tháng khoảng 8% – 9%/năm. Theo đó, các ngân hàng thương mại cổ phần hiện cho vay lĩnh vực sản xuất, kinh doanh phổ biến ở mức 9,5% -11,5%/năm đối với ngắn hạn; trung và dài hạn khoảng 12% -13%/năm.
Video đang HOT
Tại các ngân hàng thương mại Nhà nước, lãi suất cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở mức 7% – 9%/năm; cho vay lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác khoảng 9% -10,5%/năm đối với ngắn hạn; trung và dài hạn khoảng 11,5% -12,8%/năm. Trong đó, một số doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, phương án, dự án sản xuất kinh doanh hiệu quả đã được các ngân hàng cho vay với mức lãi suất chỉ 6,5% – 7%/năm.
Lãi suất giảm mạnh giúp doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn giá rẻ để phục hồi sản xuất, kinh doanh. Qua đó, hệ thống ngân hàng cũng làm tốt hơn vai trò cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu đã từng cho biết, chính sách t.iền tệ trong những năm qua luôn theo đuổi mục tiêu điều hành của Chính phủ. Ví dụ như trong năm 2008, mục tiêu đó là chống lạm phát, 2009: chống suy giảm kinh tế, 2010: phục hồi tăng trưởng và 2011: tiếp tục chống lạm phát… Hiện tại, để triển khai Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011-2020, ngành ngân hàng đã xây dựng Chương trình hành động với mục tiêu tổng quát đến năm 2020 là: Phát triển ngành ngân hàng toàn diện, an toàn, bền vững tiến tới xây dựng hệ thống ngân hàng hiện đại, hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có năng lực quản lý, trình độ ứng dụng kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và áp dụng đầy đủ các thiết chế và chuẩn mực theo thông lệ quốc tế phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam trong hoạt động ngân hàng ở cả hai cấp: quản lý nhà nước và kinh doanh t.iền tệ – hoạt động ngân hàng. Ghi nhận những thành tựu và đóng góp của ngành Ngân hàng, Đảng, Nhà nước đã trao tặng ngành Ngân hàng Huân chương Sao vàng năm 2006, Huân chương Hồ Chí Minh lần 1 năm 1996, Huân chương Hồ Chí Minh lần 2 năm 2011; hai đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 12 đơn vị trong Ngành được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới; hàng trăm đơn vị, hàng ngàn cán bộ ngân hàng được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều danh hiệu cao quý khác.
An Hạ
Theo Dantri
Đề xuất tăng mạnh thuế xuất khẩu vàng, giữ thuế với bô xít
Với đề xuất điều chỉnh tăng biểu mức thuế suất tài nguyên đối với nhiều loại khoáng sản, ý kiến thảo luận tại UB Thường vụ Quôc hôi phân thành 2 quan điểm đối lập.
Đề xuất nghị quyết thay thế Nghị quyết số 928 năm 2010 của UB Thường vụ Quôc hôi về việc ban hành biểu mức thuế suất thuế tài nguyên, tờ trình của Chính phủ đưa ra 8 loại khoáng sản kim loại, 3 loại khoáng sản phi kim và một số loại tài nguyên khác muốn tăng thuế.
Cụ thể, Chính phủ đề nghị điều chỉnh mức thuế với sắt tăng từ 10% lên 13%; titan tăng từ 11% lên 16%; vàng tăng từ 15% lên 22%; vonfram, Antimoan tăng từ 10% lên 18%; đồng tăng từ 10% lên 15%; niken tăng từ 10% lên 12%; đất làm gạch tăng từ 7% lên 10%; cát tăng từ 10% lên 11% (cho phù hợp với mức thuế suất của cát làm thủy tinh);
Nhóm khoáng sản phi kim, Chính phủ đề xuất tăng thuế suất đối với đá, sỏi từ 6% lên 7% (cho phù hợp với mức thuế suất của đá nung vôi và sản xuất xi măng); apatit tăng từ 3% lên 5%; than tăng từ 5-7% lên tương ứng là 7-9%.
Đối với nước thiên nhiên dùng cho mục đích khác (ngoài mục đích dùng cho sản xuất nước sạch), Chính phủ đề nghị thuế suất 3% nếu sử dụng nước mặt và 5% nếu sử dụng nước dưới đất. Đối với nước thiên nhiên dùng cho sản xuất thủy điện, tăng từ 2% lên 4%.
Chủ nhiệm UB Tài chính Ngân sách (trái) và Chủ nhiệm UB Tư pháp trao đổi thêm vì quan điểm trái chiều.
Theo tính toán, với các mức thuế suất dự tính điều chỉnh như nêu trên thì số thu thuế tài nguyên tăng lên khoảng 2.279 tỷ đồng (với giả thiết số thu thuế của các loại tài nguyên khác không thay đổi).
Thứ trưởng Tài chính Đỗ Hoàng Anh Tuấn cho biết, Chính phủ đề xuất xác định thời điểm có hiệu lực thi hành của nghị quyết này là từ ngày 1/1/2014.
Thẩm tra những nội dung này, Chủ nhiệm Tài chính Ngân sách Phùng Quốc Hiển nêu khá nhiều quan điểm khác nhau ngay trong chính thường trực ủy ban.
Báo cáo thẩm tra đưa ra nhận định khái quát về đề xuất điều chỉnh, trong số 54 nhóm, loại tài nguyên thì Chính phủ chỉ đề nghị tăng thuế suất đối với 15 loại là chưa bao quát toàn diện phạm vi, đối tượng cần điều chỉnh. Căn cứ, tiêu chí điều chỉnh thuế suất của 15 loại tài nguyên cũng chưa thật rõ ràng.
Nội dung đề xuất mới chỉ dừng ở việc nâng thuế suất đối với một số loại tài nguyên thuộc nhóm khoáng sản kim loại. Một số loại tài nguyên không tái tạo, trữ lượng thấp, dự báo nhu cầu sử dụng trong tương lai lớn (bạch kim, bạc, thiếc, đá vôi trắng,...) đang khai thác quy mô lớn, xuất khẩu thô nhưng Chính phủ chưa làm rõ lý do không đề xuất tăng thuế.
Phân tích khía cạnh này, UB Tài chính Ngân sách đề nghị Chính phủ giải trình thêm về các căn cứ ban hành chính sách.
Về mặt bằng thuế suất, Chủ nhiệm Phùng Quốc Hiển cho rằng, thuế suất đối với một số tài nguyên quý hiếm, có giá trị kinh tế cao, không tái tạo được điều chỉnh tăng với mức tăng không lớn, còn khoảng cách khá xa so với mức trần của khung thuế suất. Trong bối cảnh trữ lượng tài nguyên còn lại ít, công nghệ khai thác, chế biến lạc hậu, giá thành cao, giá trị gia tăng khi xuất khẩu thấp, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, công tác quản lý còn nhiều bất cập...
Ngược lại, ông Hiển đề cập kiến nghị của một số địa phương, doanh nghiệp và cả đại sứ quán của một số nước về việc không nên tăng thuế một số loại tài nguyên trong thời điểm hiện nay.
Để nâng cao hiệu quả trong quản lý, sử dụng tài nguyên và ổn định nguồn thu cho ngân sách nhà nước, ông Hiển yêu cầu cần đ.ánh giá toàn diện tình hình khai thác, xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản trong thời gian qua và xem xét, nâng hợp lý thuế suất đối với một số tài nguyên lên cao hơn mức thuế suất.
Đi vào nội dung cụ thể với từng loại, từng nhóm tài nguyên được đề xuất, ý kiến trong thường trực UB Tài chính Ngân sách thể hiện sự phân hóa rõ rệt.
Với sắt, đa số ý kiến đề nghị xem xét nâng thuế suất lên 15%, nhưng một số ý kiến khác đồng ý 13%, có ý kiến đề nghị giữ nguyên mức thuế suất hiện hành 10%.
Với vàng, hiện Luật Thuế tài nguyên quy định khung thuế suất là từ 9-25%. Mức thuế suất hiện hành là 15%. Chính phủ muốn nâng lên 22%. Cơ quan thẩm tra cũng có nhiều ý kiến, một là giữ nguyên 15%, hai là tán thành với đề xuất của Chính phủ, và cũng có ý kiến đề nghị nâng thuế suất đối với vàng lên mức trần của khung hiện hành là 25%.
Nêu ý kiến của cá nhân, ông Hiển cho rằng, thuế suất vàng đúng là cần nâng lên nhưng nâng đến mức 22% thì... sốc quá. Ông Hiển khuyến nghị, mức vừa phải nên là 17 - 18%.
Không tán thành đ.ánh giá này, Chủ nhiệm UB Tư pháp Nguyễn Văn Hiện muốn tăng thuế cao, đồng loạt với các sản phẩm khai khoáng với lý do khoáng sản ở Việt Nam chủ yếu mới chỉ bán thô. Dù xác nhận, mức đề xuất đối với vàng là cao nhưng các sản phẩm khác như Niken, sắt, đồng, titan... ông Hiện cho là vẫn chưa tương xứng. "Không nên định hướng là nhà nghèo có gì bán được thì bán mà nên tăng thuế theo lộ trình phù hợp" là khuyến cáo của ông Hiện.
Danh mục khoáng sản đề xuất tăng không có bô xít, theo ông Hiện, nghĩa là thuế xuất khẩu với sản phẩm này vẫn duy trì ở mức chỉ 12% là bất hợp lý. Chủ nhiệm UB Tư pháp muốn nâng thuế với bô xít lên ngang bằng với sắt, đồng.
Ngược lại quan điểm này, Chủ nhiệm UB Kinh tế Nguyễn Văn Giàu "bác" hẳn ý kiến nâng thuế thật cao vì giá cả các mặt hàng này cũng cần vận hành theo thị trường thế giới, đứng chung "sân chơi" với nhiều nước cùng xuất khẩu các sản phẩm khoáng sản. Tăng thuế, tăng giá bán, theo cảnh báo của ông Giàu, không hẳn mang lại hiệu quả tốt.
Gạt những lo lắng về khả năng các địa phương sẽ "vét" sạch niken ở Sơn La hay bô xít ở Tây Nguyên, ông Giàu chỉ rõ, Bộ Chính trị đã quyết định dừng việc thí điểm khai thác bô xít, chỉ ở 2 điểm Tân Rai, Nhân Cơ, còn niken chính là "tương lai" của Sơn La.
Nhấn mạnh đây là vấn đề hệ trọng, nhưng ý kiến cơ quan trình và cơ quan thẩm tra còn rất khác nhau, Chủ tịch Quôc hôi Nguyễn Sinh Hùng băn khoăn vì "chưa biết bỏ phiếu cho bên nào". Chủ tịch Quôc hôi đề nghị chuẩn bị thêm thông tin trình lại UB Thường vụ Quôc hôi trong phiên họp sau.
"Ta không khuyến khích xuất khẩu tài nguyên thô nhưng cũng phải bảo đảm nhất quán chủ trương với doanh nghiệp và thông lệ quốc tế, đừng sốt ruột với ba bốn ngàn tỷ tăng thêm, đừng có làm động tâm lý quá lúc này" - Chủ tịch Quôc hôi lưu ý.
P.Thảo
Theo Dantri
Tiếp công dân - Đừng để đơn thư… chạy lòng vòng! "Không giải quyết được việc, cơ quan tiếp dân phải chịu trách nhiệm cụ thể, không thể cứ tiếp rồi chỉ để chuyển đơn đến 3-4 nơi lòng vòng" - Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nêu vấn đề khi UB Thường vụ Quôc hôi thảo luận về dự luật Tiếp công dân. Một nội dung mới chỉnh lý được nhiều đại...