Chuyện ít biết về kỳ thi chọn trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa
Trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa là 3 danh hiệu cao quý nhất trong kỳ thi Đình. Để tuyển chọn được những người đứng đầu, triều đình phong kiến đã tổ chức nhiều kỳ thi công phu.
Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí, để đạt được danh vị trạng nguyên, sĩ tử phải vượt qua 3 kỳ thi gồm thi Hương, Hội, Đình có khi có tới 5.000-6.000 sĩ tử dự thi trong cả nước. Trong đó, thi Đình là kỳ thi cuối cùng, được tổ chức ngay tại sân điện của nhà vua.
Dưới đây là nghi thức một kỳ thi Đình thời Lê Trung Hưng đã được sử gia Phan Huy Chú ghi chép lại.
Nghi thức khai mạc hội thi
Sáng sớm trước khi kỳ thi diễn ra, quân lính mang ngai vàng của vua được đặt ở chính giữa điện Kính Thiên, phía bên trái là ngai của chúa Trịnh. Thừa dụ cục đặt bàn ở hai bên trái, phải sân rồng (sân Đình), để quyển thi, bút, nghiên mực trên bàn. Các quan đề điệu, tri cống cử, giám thí chia nhau đứng ở hai bên các bàn để quyển thi.
Sau hồi trống đầu tiên, các đại thần văn võ tiến vào chầu, ai nấy đều mang phẩm phục đứng sắp hàng ở ngoài Đoan môn. Sau hồi trống nghiêm thứ hai, ngự giá vua, chúa lên điện. Vua đội mũ xung thiên, mặc áo hoàng bào, đai ngọc, lên ngồi ngự tọa. Chúa đội mũ xung thiên, mặc áo bào tía, đai ngọc, lên ngồi ngự tọa.
Khi thi, sĩ tử luôn được giám sát chặt chẽ bởi các “khảo quan”. Ảnh tái hiện cảnh sĩ tử đi thi ngày xưa. Nguồn: Quân Đội Nhân Dân.
Sau khi bá quan văn võ hành lễ xong, lễ quan tâu rằng: Những sĩ nhân trúng thức kỳ thi Hội này là bao nhiêu người, tên là gì, vâng vào điện thí.. Các quan đề điệu, tri cống cử, giám thí đưa quyển thi, bút, nghiên, mực cho sĩ nhân xong, lại lui ra đứng chỗ cũ.
Sau khi thông qua chế (văn bản hành chính) của vua ban về hội thi, quan trường thi dẫn các sĩ nhân ra ngồi ở lều thi. Lễ xong, vua về cung. Chúa về nội phủ. Các đại thần văn võ đểu lần lượt lui ra. Đến buổi chiều quan đề điệu truyền đưa các quyển thi cho quan độc quyển làm việc.
Nghi thức ban thưởng cho tân tiến sĩ
Sáng sớm hôm ấy, Thượng thiết ty đặt ngai vua ở chính giữa cửa điện Thị triều, đặt hương án ở trước ngự tọa, đặt ngự tọa của chúa ở bên phải điện Thị triều. Thừa dụ cục đặt bàn để bảng vàng ở bên tả sân rồng. Nghi chế ty và tự ban đặt bảng vàng lên trên bàn. Hai viên thiên bách hộ mang hai lọng đứng ở hai bên bảng. Tráng sĩ các ty vệ đứng hộ vệ theo nghi thức.
Một thị lang truyền chế đứng ở bến tả sân rồng, một viên xướng danh, một viên quan lễ bộ dẫn bảng vàng, hai viên mang bảng vàng, đều đứng ở bên tả sân rồng, hướng về bên phải, một viên Nghi chế ty đứng ở bên phải sân rồng, hướng về bên trái.
Sau hồi trống nghiêm đầu, các đại thần văn võ tiến vào chầu. Sau hồi trống nghiêm thứ hai, vua lên ngồi trên điện, tự ban dẫn các viên đại thẩn văn võ vào đứng xếp hàng ở hai bên sân rồng. Các quan triều yết đứng ở ngoài Đoan môn. Hồi trống nghiêm thứ ba, tự ban dẫn các viên tân tiến sĩ vào đứng ở hàng cuối bên phải sân rồng, hướng về phía Bắc.
Vinh quy bái tổ. Ảnh: Lao Động.
Sau một hồi chuông, vua đội mũ xung thiên, mặc áo hoàng bào, đai ngọc, lên ngự tọa ở điện Thị triều, chúa đội mũ xung thiên, mặc áo bào tía, đai ngọc, lên ngự tọa ở bên tả điện, các đại thần tiến hành lễ thượng triều.
Sau khi triều thần hành lễ, Tự ban mang bảng vàng đứng tựa về phía đông. Xướng danh xong, tự ban dẫn các tiến sĩ vào quỳ ở giữa ngự đạo. Quan Lễ bộ đến giữa ngự đạo, quỳ xuống rồi đọc: Niên hiệu, năm, tháng, ngày, bọn chúng tôi phụng sắc cho đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ (trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa) mấy người họ, tên, đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (hoàng giáp) mấy người, họ, tên, đệ tam giáp đổng tiến sĩ xuất thân mấy người, họ, tên.
Sau khi đọc xong, phủ phục đứng dậy, lui ra đứng vào chỗ cũ. Quan Lễ bộ cùng tự ban mang bảng vàng từ cửa bên tả sân rồng đi ra, trống và nhạc đi trước, các tiến sĩ đi theo sau, rước đến cửa nhà Thái học, vua, chúa về nội phủ. Các quan văn võ lần lượt lui ra.
Ngay sau lễ xướng danh là nghi thức ban mũ, áo, đai cho các tân tiến sĩ. Tiếp đó là nghi thức ban yến ở bộ Lễ. Và cuối cùng là nghi thức các tân tiến sĩ lạy tạ, vinh quy bái tổ.
Dưới thời Hậu Lê, thi Đình thường tổ chức 3 năm/lần. Trong kỳ thi này, vua đích thân ra đề, chấm thi. Người đỗ đầu được gọi là Đình nguyên, có thể là trạng nguyên, nhiều kỳ thi không ai xứng đáng đỗ trạng thì Đình nguyên là bảng nhãn, thám hoa, có khi là hoàng giáp.
Từ năm 1428-1789, có hơn 100 kỳ thi được tổ chức. Người đỗ tiến sĩ được vua ban lễ xướng danh, ban mũ, áo, đai, ban yến, lạy tạ vinh quy và khắc bia tiến sĩ trong Văn Miếu để lưu truyền muôn đời.
Đề thi Đình thường liên quan đến đạo trị nước, nho sinh thường được thể hiện hết những suy nghĩ, trăn trở của mình trước vận mệnh, thời cuộc của quốc gia, những vấn đề đại sự. Những ý kiến nêu ra trong bài thi sẽ được vua xem xét, đánh giá, từ đó chọn ra người đỗ cao nhất.
Trong lịch sử khoa bảng nước ta, từng có những bài thi Đình thể hiện được tư duy, đạo trị nước xuất sắc. Tiêu biểu như bài thi Đình của trạng nguyên Vũ Kiệt năm 1472 nói về giáo dục và chống tham nhũng.
Sau khi đọc xong, phủ phục đứng dậy, lui ra đứng vào chỗ cũ. Quan Lễ bộ cùng tự ban mang bảng vàng từ cửa bên tả sân rồng đi ra, trống và nhạc đi trước, các tiến sĩ đi theo sau, rước đến cửa nhà Thái học, vua, chúa về nội phủ. Các quan văn võ lần lượt lui ra.
Ngay sau lễ xướng danh là nghi thức ban mũ, áo, đai cho các tân tiến sĩ. Tiếp đó là nghi thức ban yến ở bộ Lễ. Và cuối cùng là nghi thức các tân tiến sĩ lạy tạ, vinh quy bái tổ.
Dưới thời Hậu Lê, thi Đình thường tổ chức 3 năm/lần. Trong kỳ thi này, vua đích thân ra đề, chấm thi. Người đỗ đầu được gọi là Đình nguyên, có thể là trạng nguyên, nhiều kỳ thi không ai xứng đáng đỗ trạng thì Đình nguyên là bảng nhãn, thám hoa, có khi là hoàng giáp.
Từ năm 1428-1789, có hơn 100 kỳ thi được tổ chức. Người đỗ tiến sĩ được vua ban lễ xướng danh, ban mũ, áo, đai, ban yến, lạy tạ vinh quy và khắc bia tiến sĩ trong Văn Miếu để lưu truyền muôn đời.
Đề thi Đình thường liên quan đến đạo trị nước, nho sinh thường được thể hiện hết những suy nghĩ, trăn trở của mình trước vận mệnh, thời cuộc của quốc gia, những vấn đề đại sự. Những ý kiến nêu ra trong bài thi sẽ được vua xem xét, đánh giá, từ đó chọn ra người đỗ cao nhất.
Trong lịch sử khoa bảng nước ta, từng có những bài thi Đình thể hiện được tư duy, đạo trị nước xuất sắc. Tiêu biểu như bài thi Đình của trạng nguyên Vũ Kiệt năm 1472 nói về giáo dục và chống tham nhũng.
Bảng nhãn Lê Văn Hưu Ông là nhà sử học đời nhà Trần, tác giả bộ “Đại Việt sử ký”, quốc sử đầu tiên của Việt Nam. Ông thi đỗ Bảng nhãn khi mới 17 tuổi.
Theo Zing
Thầy giáo có nhiều học trò đỗ trạng nguyên, bảng nhãn nhất lịch sử
Thầy Trần Ích Phát có 3 học trò đỗ trạng nguyên, 4 bảng nhãn, 10 thám hoa và nhiều người khác đỗ tiến sĩ. Ông được cho là thầy giáo có nhiều học trò đỗ đại khoa nhất trong lịch sử.
Theo sách Đại Nam nhất thống chí, thầy Trần Ích Phát (chưa rõ năm sinh, mất) quê ở làng Triều Dương, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông được cho rằng thọ tới 100 tuổi.
67 học trò đỗ đại khoa
Năm 15 tuổi, ông đọc nhiều sách về thi ca, kinh nghĩa..., nổi tiếng văn chương trong thiên hạ. Dưới thời vua Lê Nhân Tông (1443-1453), ông thi Hương và đỗ giải nguyên (đỗ đầu).
Sau này, ông không ra làm quan mà về quê mở trường dạy học. Theo tài liệu để lại, thầy Trần Ích Phát có tới 67 học trò đỗ đại khoa (từ tiến sĩ trở lên). Tính riêng bậc tam khôi (trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa), ông có 17 học trò đỗ đạt (3 trạng nguyên, 4 bảng nhãn và 10 thám hoa).
Theo thống kê, tính từ khoa thi đầu tiên triều đình định ra tam khôi cho đến khoa thi cuối cùng lấy trạng nguyên (năm 1736), nước ta chỉ có 50 người đỗ trạng.
Riêng dưới thời vua Lê Thánh Tông trị vì (1460-1497), cả nước có 9 trạng nguyên, 10 bảng nhãn, 10 thám hoa, 146 hoàng giáp, 136 tiến sĩ. Trong đó, 3 học trò của thầy Trần Ích Phát đỗ trạng nguyên, 4 bảng nhãn, 6 thám hoa, 10 hoàng giáp và 51 tiến sĩ.
Ba học trò của thầy Trần Ích Phát đỗ trạng nguyên là Vũ Kiệt (đỗ năm 1472), Trần Sùng Dĩnh (đỗ năm 1487) và Nghiêm Hoản (đỗ năm 1496). Riêng ở 2 khoa thi đình năm Hồng Đức thứ 18 và thứ 27 đời vua Lê Thánh Tông, tất cả bảng tam khôi đều là học trò của thầy Phát.
Thầy đồ ngày xưa. Ảnh minh họa.
Cụ thể, khoa thi năm 1487, triều Lê Thánh Tông, ngoài Trần Sùng Dĩnh chiếm trạng nguyên, người đứng thứ hai là bảng nhãn Nguyễn Đức Huấn và thứ ba là thám hoa Thân Cảnh Vân. Đến khoa thi năm Bính Thìn, cũng dưới triều vua Lê Thánh Tông (1496), Nghiêm Hoản đỗ trạng nguyên, Nguyễn Huân đỗ bảng nhãn và Đinh Lưu Kim đỗ thám hoa. Tất cả đều là học trò của thầy Trần Ích Phát.
Nhiều học trò của thầy Trần Ích Phát chiếm bảng vàng khi tuổi đời còn rất trẻ. Vũ Kiệt đỗ trạng nguyên năm 21 tuổi. Trần Sùng Dĩnh đỗ trạng nguyên khi 23 tuổi. Nguyễn Huân đỗ bảng nhãn lúc 21 tuổi. Đinh Lưu Kim đỗ thám hoa khi mới 18 tuổi. Thân Cảnh Vân đỗ thám hoa năm 25 tuổi...
Nhiều bài thi của học trò thầy Phát đã trở thành áng văn trị nước bất hủ, được lưu lại đến nay. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến bài thi Đình về "Đế vương trị thiên hạ" của trạng nguyên Vũ Kiệt.
Theo sách Văn hiến Kinh Bắc, bài thi của Vũ Kiệt đã viện dẫn hài hòa những sách vở kinh điển, sử dụng tư duy sáng tạo để làm bài nghị luận sắc sảo. Lời văn lưu loát, bài viết rất dài. Khi chấm, vua Lê Thánh Tông và các khảo quan đều rất hài lòng.
Trong bài văn của mình, ông đề cấp rất nhiều vấn đề như giáo dục, chống tham nhũng... Ở lĩnh vực nào, Vũ Kiệt cũng cho thấy trí tuệ uyên bác của bậc túc nho.
Dạy đạo làm người
Không chỉ dạy về kiến thức, thầy Trần Ích Phát còn rất thành công trong việc dạy đạo làm người cho học trò. Học trò của ông, sau khi đỗ đạt, đã trở thành những bề tôi nổi tiếng chính trực. Một số người đảm đương chức vụ cao nhất trong bộ máy nhà nước đương thời, là những cánh tay đắc lực, góp phần giúp nhà vua chấn hưng và đưa nước nhà đến giai đoạn cực thịnh.
Trạng nguyên Vũ Kiệt trở thành bậc hiền tài đức độ. Trạng nguyên Trần Sùng Dĩnh, các bảng nhãn Nguyễn Huân, Nguyễn Đức Huấn, thám hoa Lê Ninh đều làm quan đến thượng thư.
Trong số 28 ngôi sao (Nhị thập bát tú) của hội Tao Đàn do vua Lê Thánh Tông sáng lập và làm chủ (gồm những vị đại khoa tài giỏi văn chương), một số học trò của thầy Trần Ích Phát cũng có mặt, như trạng nguyên Trần Sùng Dĩnh, thám hoa Nguyễn Đức Huấn, thám hoa Lưu Ngạn Thu.
Một số học trò của thầy còn để lại các tác phẩm văn học được ghi trong sách Toàn việt thi lục như các bài thơ của trạng nguyên Trần Sùng Dĩnh, bảng nhãn Lưu Đức Huấn, hoàng giáp Trần Hoành.
Trí tuệ và đức độ của thầy Trần Ích Phát không chỉ khiến người đời khâm phục, học trò trong và ngoài tỉnh kéo tới học rất đông. Ngay tại kinh thành, từ khi còn là hoàng tử, vua Lê Thánh Tông từng biết tiếng thầy Trần Ích Phát và đem lòng quý trọng.
Sau khi lên ngôi vua, chứng kiến sự nghiệp dạy học thành công của thầy Phát, nhà vua đặc cách phong ông ngang với các bậc đỗ đại khoa, dù cho ông chỉ đỗ giải nguyên ở kỳ thi Hương.
Theo Zing
Hà Nội cấm việc lợi dụng danh nghĩa ban đại diện cha mẹ học sinh để thu ngoài UBND TP Hà Nội vừa ban hành công văn về việc thực hiện các khoản thu trong lĩnh vực giáo dục đào tạo năm học 2018-2019. Theo đó, UBND TP yêu cầu Sở GD-ĐT, Sở Tài chính, Sở LĐ - TB&XH, UBND các quận, huyện, thị xã chỉ đạo tuyệt đối cấm việc lợi dụng danh nghĩa Ban đại diện cha mẹ học...