Chuyển hạng, xếp lương giáo viên còn nhiều bất cập, mất công bằng
Khi giáo viên trúng tuyển ở bậc học nào thì căn cứ vào trình độ đào tạo, năng lực chuyên môn để cho giáo viên được hưởng lương theo hạng tương ứng với trình độ.
Trong thời gian qua, trên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có loạt bài viết của nhiều tác giả về những bất cập hạn chế của việc thực hiện bổ nhiệm, chuyển xếp lương giáo viên mới theo các Thông tư 01, 02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT, những bài viết liên quan đến chính sách, chế độ được giáo viên cả nước đặc biệt quan tâm.
Trong bài viết này người viết chỉ xin tiếp tục trình bày thêm những bất cập, hạn chế, bất công của các Thông tư 01, 02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT khi bổ nhiệm, xếp lương giáo viên mới để thấy rằng việc nếu tiếp tục thực hiện việc bổ nhiệm, chuyển xếp lương theo thông tư mới này sẽ phát sinh từ bất cập, bất công này đến bất cập, bất công khác và kiến nghị của bản thân để giải quyết những bất cập trên.
Ảnh minh hoạ: Nhandan.vn
Tổng thể những bật cập, bất hợp lý của các thông tư bổ nhiệm, xếp lương giáo viên mới
Nguyên nhân lớn nhất để các Thông tư 01, 02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT có hiệu lực 6 tháng mà các địa phương vẫn chưa thể triển khai thực hiện bổ nhiệm và xếp lương mới là do những bất cập, hạn chế, phức tạp, không hợp lý của các thông tư trên.
Thứ nhất , các tiêu chuẩn của các hạng chức danh nghề nghiệp còn bất hợp lý.
Trong các thông tư trên thì mỗi hạng chức danh nghề nghiệp đều có tiêu chuẩn gồm: Tiêu chuẩn về việc thực hiện nhiệm vụ; tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp; tiêu chuẩn về trình độ đào tạo bồi dưỡng; tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ.
Mỗi tiêu chuẩn có rất nhiều tiêu chí, như vậy mỗi hạng giáo viên thì giáo viên có thể phải đảm bảo đạt đến 24 tiêu chí, ở hạng cao hơn thì giáo viên phải đạt thêm nhiều tiêu chí khác.
Theo Công văn số: 971/BGDĐT-NGCBQLGD về việc triển khai thực hiện mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập thì yêu cầu để bổ nhiệm, xếp lương thì giáo viên phải đảm bảo 100% các tiêu chí của tiêu chuẩn giáo viên các hạng.
Nếu đảm bảo 100% các tiêu chuẩn kèm minh chứng thì hầu như giáo viên sẽ khó đạt nhất là các tiêu chuẩn giáo viên hạng I, II.
Thậm chí sẽ có nhiều giáo viên không đảm bảo tiêu chuẩn của hạng thấp nhất, dẫn tới không thể xếp lương mới.
Mà thực tế nếu có đạt các tiêu chuẩn thì chỉ có số lượng ít các hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn đạt các hạng I, II, giáo viên dù giỏi, tốt khó có “cửa” đạt 100% tiêu chuẩn như tiêu chuẩn là báo cáo viên, hướng dẫn đồng nghiệp,…
Nên các thông tư mới không có nhiều ý nghĩa, khó thực hiện, không phù hợp.
Thứ hai , việc bổ nhiệm hạng, chuyển xếp lương mới không có cơ sở khoa học.
Người viết qua tìm hiểu thì nhận thấy quy định của các thông tư mới việc chuyển hạng, chuyển xếp hệ số lương không theo quy luật, cơ sở khoa học.
Video đang HOT
Về hạng thì có trường hợp chuyển từ hạng IV sang hang hạng III; có trường hợp từ hạng III sang hạng III; có trường hợp từ hạng II sang hạng II, III; có trường hợp hạng I sang hạng I; II thậm chí có thể từ hạng I sang hạng III,… nói chung rất vô lý.
Về hệ số lương khi chuyển thì cũng rất vô lý khi có trường hợp chuyển hệ số lương bằng nhau, có trường hợp chuyển gần bằng, lại có trường hợp chuyển tăng rất cao (từ hạng II cũ sang hạng II mới ở bậc tiểu học, trung học cơ sở từ 2,67- 3,99 đều cùng qua 4,0); có cả trường hợp chuyển xuống hệ số lương (các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa có quy định),..
Như vậy, các thông tư mới việc chuyển xếp lương lần này không có cơ sở khoa học cả về việc chuyển xếp hạng, chuyển xếp hệ số lương.
Thứ ba , có giáo viên thiệt thòi 10 năm, nay chuyển xếp lương mới lại tiếp tục thiệt thòi.
Nhiều giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở đã tốt nghiệp đại học từ 2012 đến nay vẫn không được chuyển hưởng lương đại học nên chỉ xếp lương giáo viên hạng IV cũ (mầm non, tiểu học), hạng III cũ (tiểu học, mầm non, trung học cơ sở), nhiều người đã có rất nhiều thành tích, nhiều người là hiệu trưởng, phó hiệu trưởng,… nhưng khi chuyển sang Thông tư mới chỉ vẫn quy định chuyển mức lương có hạng và hệ số lương thấp nhất trong các hạng mới là không hợp lý, gây bất bình trong giáo viên.
Bất cập của việc chia hạng là công việc giáo viên hạng II cũ của tiểu học, trung học cơ sở hiện nay không khác gì với giáo viên tiểu học, trung học cơ sở hạng III cũ,… nhưng khi chuyển xếp lương thì giáo viên tiểu học, trung học cơ sở hạng II cũ chuyển sang hạng hạng II mới tăng lên khá cao (có hệ số lương 4,0 đến 6,38), còn hạng III cũ (dù đã có bằng đại học, hiệu trưởng, tổ trưởng,…) nhưng cũng chỉ được xếp hạng III mới có hệ số lương 2,34 – 4,98. Điều này quá bất công, bất hợp lý.
Từ những phân tích trên, và với phân tích của nhiều tác giả trong nhiều bài viết trước để thấy rằng bất cập, bất công rất lớn nếu tiếp tục thực hiện việc chuyển xếp lương theo các thông tư mới trên.
Bất cập của các Thông tư 20, 21, 22, 23/2015/TTLT-BNV-BGDĐT
Sau khi Thông tư 20, 21, 22, 23/2015/TTLT-BNV-BGDĐT được ban hành thì năm 2015 bắt đầu bổ nhiệm giáo viên theo hạng.
Thực tế khi bổ nhiệm giáo viên theo các thông tư trên cũng không căn cứ tiêu chuẩn gì, chỉ cần căn cứ hệ số lương đang hưởng là chuyển và khi chuyển hệ số lương là tương đương, đợt chuyển xếp lương theo các thông tư này không tăng, không giảm nên không có nhiều bất cập. Cụ thể việc chuyển xếp lương theo các Thông tư 20, 21, 22, 23/2015 như sau:
Ở bậc mầm non, tiểu học giáo viên hưởng lương 1,86 – 4,06 thì chuyển hạng IV; hưởng lương 2,1 – 4,89 chuyển sang hạng III; hưởng lương 2,34 – 4,98 chuyển sang hạng II có hệ số lương tương đương.
Giáo viên trung học cơ sở có hệ số lương 2,1 – 4,89 chuyển sang lương hạng III; có hệ số lương 2,34 – 4,98 chuyển sang hạng II có hệ số lương tương đương.
Giáo viên trung học phổ thông có hệ số lương 2,34 – 4,98 chuyển sang hạng III; hệ số lương 4,0 đến 6,38 chuyển sang hạng II có hệ số lương tương đương.
Như đã nói việc chuyển này hầu như chuyển sang ngang, không tăng không giảm nên giáo viên cũng không thiệt thòi, không gây bức xúc.
Giáo viên chỉ bức xúc có 2 trường hợp là những giáo viên tốt nghiệp đại học nếu nhận công tác từ năm 2015 nếu công tác ở bậc nào thì hưởng lương có hạng và hệ số lương ở bậc thấp nhất, giáo viên có bằng đại học dạy ở mầm non, tiểu học hưởng lương hạng IV có hệ số lương 1,86 – 4,06, dạy ở trung học cơ sở hưởng lương hạng III có hệ số lương 2,1 – 4,89 và bất cập thứ hai là hàng ngàn giáo viên kể từ năm 2012 đến nay có bằng đại học hoặc cao hơn nhưng không được xét thăng hạng vẫn hưởng lương trung cấp, cao đẳng.
Bất cập của các Thông tư 20, 21, 22, 23/2015 là 2 vấn đề trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo có ban hành các thông tư về thăng hạng (Thông tư 28, 29/2017/TT-BGDĐT) nhưng chưa giải quyết được, hầu như cả nước rất ít giáo viên nào được thăng hạng, xếp lương đúng vị trí việc làm thì Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành các thông tư mới 01, 02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT, kéo theo hàng loạt bất cập, bất công mới, phức tạp hơn, rắc rối hơn.
Giáo viên đặt câu hỏi tại sao Bộ Giáo dục và Đào tạo lại không cho giáo viên được chuyển sang hạng mới theo các Thông tư 21, 22, 23, 24/2015/TTLT-BNV-BGDĐT để giáo viên bớt thiệt thòi mà lại ban hành một chùm Thông tư mới khiến giáo viên thiệt thòi thêm, bất công thêm.
Mong ước của giáo viên là được thăng hạng theo các Thông tư 20, 21, 22, 23/2015
Như đã trình bày ở trên, từ khi ban hành các Thông tư 20, 21, 22, 23/2015 thì chỉ xuất hiện 2 bất cập là giáo viên mới công tác ở các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở không được hưởng lương theo bằng cấp mà hưởng lương trung cấp, cao đẳng và bất cập thứ hai là giáo viên không được thăng hạng.
Giải quyết 2 điều trên là loại bỏ bất cập, bức xúc hiện nay.
Nên người viết tha thiết kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo dừng việc xếp hạng theo các Thông tư 01, 02, 03, 04/2021 mà thực hiện việc thăng hạng cho giáo viên đã tốt nghiệp đại học đang hưởng lương trung cấp cao đẳng ở các cấp học mầm non đến trung học cơ sở.
Bên cạnh đó, khi giáo viên trúng tuyển ở bậc học nào thì căn cứ vào trình độ đào tạo, năng lực chuyên môn để cho giáo viên được hưởng lương theo hạng tương ứng với trình độ đào tạo là cơ bản giải quyết được những bất cập, bất công về xếp hạng, xếp lương hiện nay.
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.
Giáo viên mới vào ngành năm 2019 có đủ điều kiện bổ nhiệm hạng II?
Bạn có thể có đầy đủ bằng cấp, chứng chỉ bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp hạng II nhưng theo Thông tư 03/2021/TT-BGDĐT thì còn nhiều tiêu chí lắm.
Bạn đọc An Lê, có địa chỉ email là lenguyenhongan...@gmail.com đã viết thư gửi cho Tòa soạn Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam nhờ tư vấn về trường hợp của mình, nội dung câu hỏi như sau:
Kính gửi Tòa soạn Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam.
Tôi là giáo viên tuyển mới năm 2019, hiện đã hết thời gian tập sự và vừa được bổ nhiệm là giáo viên trung học cơ sở hạng II- mã số V07.04.11, hưởng lương bậc 1, hệ số 2.34.
Trước đây, tôi tham gia giảng dạy tại trường khác với mã chức danh nghề nghiệp 15.113 và có giấy khen cấp tỉnh.
Vậy, tôi có thể lấy giấy khen đó làm chứng nhận thành tích để xét chuyển sang giáo viên trung học cơ sở hạng II mới không? Hiện tôi đã có đầy đủ các tiêu chuẩn và chứng chỉ, kể cả chứng chỉ bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp hạng II. Kính nhờ Tòa soạn phản hồi.
Trong thời gian chờ đợi sự giải đáp, em xin chân thành cám ơn!
Ảnh minh họa: Lã Tiến
Người viết cung cấp một số thông tin, quy định liên quan đến vấn đề bạn hỏi, để bạn An Lê và các đồng nghiệp có chung quan tâm cùng tham khảo, như sau:
Thứ nhất : bạn mới được tuyển dụng từ năm 2019 và khi hết thời gian tập sự thì bạn được bổ nhiệm là giáo viên trung học cơ sở hạng II- mã số V07.04.11, hưởng lương bậc 1, hệ số 2.34 là hoàn toàn chính xác.
Vì thời điểm đó, việc bổ nhiệm, xếp lương theo chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở được thực hiện theo Thông tư liên tịch số 22/2015/TTLT-BGDĐT-BNV của Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Tuy nhiên, ngày 02/02/2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư 03/2021/TT-BGDĐT quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các trường trung học cơ sở công lập thì đã có một số tiêu chí thay đổi khi xếp giáo viên trung học cơ sở hạng II.
Theo thư bạn gửi cho tòa soạn thì bạn trình bày là " đã có đầy đủ các tiêu chuẩn và chứng chỉ, kể cả chứng chỉ bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp hạng II " nhưng thực tế có thể...chưa hẳn là như vậy.
Bởi, bạn có thể có đầy đủ bằng cấp, chứng chỉ bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp hạng II nhưng theo Thông tư 03/2021/TT-BGDĐT thì để được là giáo viên trung học cơ sở hạng II có nhiều tiêu chí lắm.
Chẳng hạn, ngoài bằng cấp, chứng chỉ theo quy định thì phần nhiệm vụ bạn phải đảm bảo một số tiêu chí như: " Tham gia đoàn đánh giá ngoài; hoặc công tác kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên từ cấp trường trở lên; Tham gia ban giám khảo hoặc ban ra đề hoặc người hướng dẫn trong các hội thi (của giáo viên hoặc học sinh) từ cấp trường trở lên (nếu có )".
Đặc biệt, khi dự thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở hạng II thì bạn " phải có thời gian giữ chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở hạng III (mã số V.07.04.32) hoặc tương đương đủ từ 09 (chín) năm trở lên (không kể thời gian tập sự), tính đến thời hạn nộp hồ sơ đăng ký dự thi hoặc xét thăng hạng ".
Những tiêu chí được hướng dẫn như vậy mà bạn mới được tuyển dụng vào ngành từ năm 2019 thì chúng tôi nghĩ bạn chưa đảm bảo các tiêu chí này. Ngoài ra, nó còn rất nhiều tiêu chí khác nữa tại điều 4 của Thông tư 03/2021/TT-BGDĐT, bạn có thể tham khảo thêm.
Thứ hai : bạn nói rằng: " Trước đây, tôi tham gia giảng dạy tại trường khác với mã chức danh nghề nghiệp 15.113 và có giấy khen cấp tỉnh. Vậy, tôi có thể lấy giấy khen đó làm chứng nhận thành tích để xét chuyển sang giáo viên trung học cơ sở hạng II mới không?
Câu hỏi này, bạn chưa nói rõ là "trước đây" là thời điểm nào, bạn đã từng dạy ở "trường khác" là ký hợp đồng có thời hạn hay hợp đồng không xác định thời hạn, cơ quan nào ký?
Và, chúng tôi cũng không tìm thấy " mã chức danh nghề nghiệp 15.113 " mà bạn nói được hướng dẫn ở văn bản nào.
Bởi, từ năm 2005 đến 2015 thì chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở có các mã số 15a.201; Mã số 15a.202; Mã số 15c.208.
Từ năm 2015 đến trước khi có Thông tư 03/2021/TT-BGDĐT có hiệu lực từ ngày 20/3/2021 thì giáo viên trung học cơ sở hạng I - Mã số: V.07.04.10; Giáo viên trung học cơ sở hạng II - Mã số: V.07.04.11; Giáo viên trung học cơ sở hạng III - Mã số: V.07.04.12.
Khi có Thông tư 03/2021/TT-BGDĐT thì chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở bao gồm: Giáo viên trung học cơ sở hạng III - Mã số V.07.04.32; Giáo viên trung học cơ sở hạng II - Mã số V.07.04.31; Giáo viên trung học cơ sở hạng I - Mã số V.07.04.30.
Tuy nhiên, xếp xếp hạng giáo viên theo Thông tư 03/2021/TT-BGDĐT hiện nay các địa phương đang thực hiện theo hướng dẫn của văn bản số 971/BGDĐT-NGCBQLGD ngày 12/3/2021 nên hiện nay đa số các địa phương chưa triển khai việc xếp hạng giáo viên đến các nhà trường.
Việc bạn có giấy khen cấp tỉnh cũng là một tiêu chí khi xếp hạng giáo viên nhưng theo hướng dẫn của Thông tư 03/2021/TT-BGDĐT và quan điểm của chúng tôi thì trường hợp của bạn chưa đủ điều kiện để được xếp giáo viên trung học cơ sở hạng II vì bạn mới được tuyển dụng từ năm 2019 nên có thể bạn sẽ xuống hạng III.
Chính vì vậy, bạn chờ đợi hướng dẫn cụ thể của Phòng Nội vụ, Phòng Giáo dục- nơi bạn công tác bởi theo văn bản số 971/BGDĐT-NGCBQLGD thì các địa phương đã và đang triển khai công việc này rồi.
Những tư vấn trên đây chỉ mang tính chất tham khảo. Cảm ơn bạn đã gửi thư đến Tòa soạn.
Tài liệu tham khảo:
https://luatvietnam.vn/co-cau-to-chuc/thong-tu-03-2021-bo-nhiem-xep-luong-giao-vien-thcs-cong-lap-198082-d1.html
Viên chức ngành nào chẳng chia hạng, sao mỗi giáo viên "kêu" Nhiều giáo viên cho rằng, thật vô lý khi cùng làm một công việc như nhau, hiệu quả như nhau lại có người xếp hạng 1, có người xếp hạng 2, 3, 4. Trong thời gian gần đây, câu chuyện về xếp hạng giáo viên nhận được sự quan tâm của dư luận xã hội. Đặc biệt, có một số ý kiến cho...