Chuyện hai vợ chồng trẻ 8 năm gieo ‘niềm tin’ cho học sinh
“Học không chỉ để làm ông này bà kia, mà học để chúng ta có thể thêm hiểu biết về thế giới rộng lớn này và làm chủ bản thân mình” – hai vợ chồng thầy May đưa ra lời khuyên.
Trước ngày mở đường, điểm trường tiểu học Thăm Thẩm (đóng trên địa bàn xã Nhôn Mai, huyện Tương Dương, Nghệ An) được xem là một trong những nơi khó khăn nhất của huyện Tương Dương.
Một lúc phụ trách 3 lớp, cô Minh phải đi dạy kèm từng em một.
“Nơi đâu có tình yêu thì ở đó có sự sống”
Điểm trường vỏn vẹn chỉ có một dãy hai phòng học tạm bợ được dân bản chung sức dựng lên, nên từ những ván gỗ tạm bợ nay đã xuống cấp, nằm chênh vênh trên đỉnh núi.
Đã gần 1 thập kỷ cắm bản dạy học tại điểm trường này, thế nhưng hai vợ chồng cô Kim Thị Minh (36 tuổi) và thầy Kha Văn May (38 tuổi) vẫn chưa thích nghi hết với khí hậu tại đây.
Cô Minh nói: “Ở đây thời tiết thay đổi thất thường đến chóng mặt” và cho biết luôn phải mang theo bên mình một chiếc áo khoác dù trời nắng đến gần 40 độ C để kịp thích ứng với thời tiết thay đổi.
Tranh thủ quét dọn lại phòng học, cô Minh nhanh chóng đi lấy nước tưới cho bồn hoa nhỏ nhắn trước điểm trường.
Cô Minh kể, sau khi tốt nghiệp đại học, cô theo tiếng gọi của tình yêu cô lên làm dâu và cùng chồng giảng dạy tại trường tiểu học Nhôn Mai. Cách đây 8 năm, hai vợ chồng cô được phân công về điểm trường tiểu học Thăm Thẩm cắm bản, “cõng” con chữ đến với các em học sinh.
Những ngày đầu mới lên đây công tác, cô không khỏi rùng mình. Nhiều lần bật khóc khi phải vượt qua những con đường mòn vắt ngược lên đỉnh núi, “bò” men theo khe núi đá bên bờ vực sâu cực kỳ hiểm trở để đến với điểm trường.
Thời tiết thay đổi thất thường, hai vợ chồng thầy May phải mặc thêm áo ấm để dạy trong mùa hè.
Video đang HOT
“Thời đó khó khăn lắm, không có đường như bây giờ, trường còn đóng ở phía trong, mưa là bị ngập. Muốn đến điểm trường, hai vợ chồng tôi chỉ có nước lội bộ thôi. Bây giờ thì đường sá đi lại thuận tiện hơn, hai vợ chồng cũng chuyển ra dựng lán ở ngay gần trường để tiện đi lại và thăm hỏi các em học sinh luôn”, thầy May tâm sự.
Suốt nhiều năm liền hai vợ chồng cùng nhau vượt qua trăm ngàn khó khăn để gieo con chữ tại điểm trường từng được xem là khó khăn nhất của huyện Tương Dương. Nói về những vất vả trong công việc cô Minh chỉ mỉm cười và nói “Nơi nào có tình yêu thì nơi đó sẽ có sự sống thôi”.
Việc được phân công cùng chồng “cắm” tại một điểm trường đầy gian nan nhưng đối với cô giáo trẻ này đó lại là một thuận lợi. Bởi nếu ngày ấy, chỉ một mình cô vào điểm trường này thì có lẽ cô đã không trụ nổi. Nhưng có người chồng bên cạnh, những khó khăn dường như không còn, trên gương mặt cô lúc nào cũng nở nụ cười.
“Nói thật là ngày đó nếu không có chồng ở bên cùng hỗ trợ, động viên thì tôi chắc gì đã bám trụ lại được ở đây. Khó khăn là vậy nhưng cứ nghĩ đến hình ảnh mấy đứa trẻ mới mấy tuổi đầu đã phải bỏ học theo bố mẹ vào rẫy thì tôi lại thấy xót, và thương cho tương lai của các em. Cứ như vậy, thế hệ này đến thế hệ kia chỉ biết bám vào nương rẫy thì khi nào mới thay đổi được”, cô Minh cho biết.
Gieo tư tưởng cũng quan trọng như dạy chữ
Hiện tại điểm trường này có 5 lớp với 25 học sinh, người vợ phụ trách lớp 1, 2, 3 còn chồng là thầy May phụ trách hai lớp 4 và 5. Nhắc đến các em học sinh của mình, thầy May hồ hởi cho biết, đến thời điểm hiện tại, học sinh trong vùng đã không còn tình trạng bỏ học để đi làm rẫy. Một con đường thảm nhựa cũng vừa mới được làm đi ngang qua trường nên tạo điều kiện thuận lợi để các em học sinh tới trường hơn.
Để có được thành quả như ngày hôm nay, người thầy giáo 38 tuổi này đã phải cùng vợ mình dùng mọi phương án để vừa truyền đạt chữ, vừa truyền đạt tư tưởng cho các em. Theo thầy May, đối với học sinh vùng cao, việc học của các em chỉ thường dừng lại ở biết chữ.
Thậm chí nhiều em và gia đình chỉ quan tâm đến việc làm nương rẫy nên trước khi dạy chữ cho các em, hai vợ chồng thầy May luôn tâm sự, nói chuyện thật nhiều để các em biết được tầm quan trọng của việc học.
Điểm trường Thăm Thẩm.
“Chúng tôi luôn nói với các em, học không chỉ là để làm ông nọ bà kia mà là để có thể làm chủ bản thân, nâng cao kiến thức để hiểu biết thêm về thế giới. Vì vậy mà suốt 3 năm qua, ở điểm trường này đã không còn tình trạng các em bỏ học, nghỉ học đi làm rẫy. Các em trong độ tuổi cũng đến trường đầy đủ”, thầy May vui vẻ cho biết.
Lớp học tại đây cũng thật đặc biệt, khi người giáo viên một lúc phải phụ trách 3 lớp dù số lượng học sinh rất ít. Trong mỗi phòng học, mỗi lớp được xếp bàn hướng về một phía khác nhau. Trong cùng một buổi dạy, thầy, cô liên tục thay đổi vị trí để thực hiện những giáo trình khác nhau đối với mỗi lớp học.
“Hiện tại điều kiện cơ sở vật chất của điểm trường này vẫn còn rất nhiều khó khăn, chúng tôi cũng mong các cấp tạo điều kiện hỗ trợ hơn nữa để khắc phục giúp công tác dạy và học được tốt hơn”, cô Minh chia sẻ.
Theo Ngọc Hoa/ Infonet
Thầy giáo bật khóc trên đường đến trường
Các thầy ở xã vùng biên Thượng Trạch (Bố Trạch, Quảng Bình) vẫn đùa, là học sinh tiểu học nhưng nếu muốn được gặp cô giáo, các em phải chờ đến THCS. Vì ở đây, thầy giáo là mẹ hiền.
Học sinh ở Noồng cũ.
Xã vùng biên Thượng Trạch hầu như tách biệt với bên ngoài, là nơi sinh sống của 18 bản làng người dân tộc Ma Coong.
Địa bàn cách trở, có những bản phải băng rừng mấy tiếng đồng hồ mới đến được, có bản ở cách đường 20 Quyết Thắng cả chục cây số nên đời sống bà con vô cùng vất vả.
Cả xã có hai trường tiểu học nhưng chỉ có một vài bản ở gần trung tâm xã là học sinh được học tập trung tại trường số 1. Các bản còn lại đều có thầy giáo về cắm bản để dạy chữ cho các em.
Thầy Nguyễn Văn Thăng đã có hơn 10 năm gắn bó với học sinh ở đây .
Trường học chỉ có thầy
"Trường có tất cả 38 cán bộ, giáo viên nhưng chỉ có 3 cán bộ nữ làm những công việc văn phòng. 35 người còn lại đều là thầy giáo, mỗi bản 2 người, cùng ăn cùng ở với đồng bào để dạy chữ cho các em tiểu học", thầy Võ Anh Tuân, Hiệu trưởng Trường Tiểu học số 2 Thượng Trạch cho biết.
Ở các bản làng xa xôi, học sinh không được học mầm non vì không đủ điều kiện mở lớp, điều kiện đi lại, ăn ở quá vất vả nên chỉ có các thầy cắm bản. nói vui như thầy Đồ Hồng Thái, giáo viên tại bản 51 thì phải đến cấp 2 các em mới được học cùng cô giáo.
Các em học sinh ở đây chỉ bắt đầu được học tiếng Kinh khi vào lớp 1. Để dạy được, thầy cũng phải học tiếng nói của đồng bào Ma Coong, không chỉ trò mà thầy cũng có thêm "ngoại ngữ". Không chỉ dạy chữ, nhạc, họa thầy cũng dạy...nốt.
"Trường có tất cả 21 lớp, trong đó chỉ có 1 lớp đơn ở bản Cờ Đỏ, 13 lớp ghép nhóm hai trình độ, 6 lớp ghép nhóm ba trình độ, 1 lớp ghép nhóm bốn trình độ", thầy Tuân cho biết thêm.
Lớp ghép 4 trình độ ở bản Noồng cũ do thầy Nguyễn Văn Lai đảm nhiệm. có tất cả 7 em học sinh từ lớp 2 đến lớp 5. Cứ đến giờ học, thầy lại chia bảng làm đôi để dạy cho các em học.
Và những lần các thầy phải khóc
Trước khi lên đây, có thầy đã có gia đình nhưng có thầy thì chưa. Năm ở bản này, năm khác lại luân chuyển qua bản khác, điện thắp sáng không, sóng điện thoại bản có bản không nên tuổi thanh xuân của một vài người cũng đành ở lại với núi rừng.
Khoảng bốn năm trở lại đây, con đường 20 Quyết Thắng mới thông suốt, trước đó cực lắm. Đường đất vốn đã ngoằn nghèo, dốc dựng đứng, mỗi khi mưa xuống lại lầy lội, sụt lún, xe ga lên lại xoay ngược lại không thể nào đi nổi.
Các em học sinh ở bản Bụt sau giờ học .
"Năm 2008, tôi một mình vác ba lô lên trường, khi đến cây số 54 thì gặp mưa, đường quá lầy lội nên xe bị lún xuống sâu không sao kéo lên được. Nói các chị đừng cười chứ lúc đó tôi chỉ biết ngồi khóc vì lực bất tòng tâm.
Khóc xong vẫn không kéo được xe lên nên phải ngồi chờ có người đi qua rồi nhờ họ kéo lên giúp. Hồi đó người qua lại cũng "hiếm" lắm nên đi từ sáng mà phải tối mịt tôi mới lên đến nơi", thầy Đỗ Hồng Thái nhớ lại.
Là thầy giáo cắm bản hơn 10 năm, thầy Nguyễn Văn Thăng nhớ lại những ngày đầu lên đây. Nhớ nhà, nhớ vợ con khiến thầy nhiều lúc muốn bỏ về. Nhưng rồi những ánh mắt trong veo của học sinh lại níu chân thầy lại. Ngót ngét cũng hơn chục năm trời, nếu không yêu nghề thì làm sao trụ được.
Hiện thầy dạy tại bản Noồng mới: " Ở đây không có sóng điện thoại, chỉ lâu lâu mới tìm được điểm rơi, tôi và một thầy nữa cắt cái chai nhựa đóng vào tường để hứng sóng. Mới đầu không quen, cứ nghe chuông báo cuộc gọi, mừng quá chạy lại nhấc lên là kiểu gì cũng mất sóng. Giờ quen rồi nên điện thoại lúc nào cũng cắm tai nghe, có chuông là chỉ việc lại ngồi đó đeo tai nghe vào", thầy Thăng vui vẻ kể.
Điều kiện sinh hoạt đã khổ, đau ốm còn khổ hơn bội phần. "Năm 2010, tôi dạy ở Noồng đột nhiên bị đau bụng dữ dội, đi không nổi mà trời lại đang mưa lớn, nước đầu nguồn đổ về khiến con đường độc đạo băng suối về xuôi bị ngăn cách.
Không còn cách nào khác, tôi được ba đồng nghiệp dẫn vượt sông,vì quá đau nên vừa đi vừa khóc, cũng may mà không bị nước cuốn trôi. Lần đó tôi bị viêm dạ dày cấp tính"- thầy Hồ Văn Minh góp chuyện.
Khó khăn là thế nhưng thấy các em học sinh đến lớp đều, đọc thông viết thạo là niềm động viên vô cùng lớn cho các thầy. "Còn sức, còn được phân công tôi vẫn ở lại để dạy những thế hệ tiếp theo", thầy Minh chia sẻ.
Theo Hải Sâm/Vietnamnet
Ươm mầm tài năng nơi vùng cao Tây Bắc Trên mảnh đất còn nhiều khó khăn có những thầy giáo, cô giáo vượt qua bao khó khăn với ước vọng giúp các thế hệ học sinh làm chủ tri thức, đóng góp xây dựng quê hương giàu đẹp hơn. Cô giáo Trần La Giang (Trường THPT chuyên tỉnh Sơn La) là điển hình trong vườn hoa những nhà giáo tâm huyết với...