Chuyên gia cấp cao của ADB hiến kế để TP. HCM trở thành trung tâm tài chính toàn cầu
Theo ông Donald Lambert, Chuyên gia cấp cao của ADB về phát triển khu vực tư nhân, với những cải cách quan trọng về tài chính, TP. HCM có tiềm năng đi theo mô hình của Tokyo, Thượng Hải, Mumbai và các trung tâm tài chính toàn cầu khác. Ông Donald Lambert cũng đã đề xuất 4 giải pháp để TP. HCM tham khảo nhằm hiện thực hoá khát vọng táo bạo này.
Chuyên gia cấp cao của ADB hiến kế để TP. HCM trở thành trung tâm tài chính toàn cầu
Trước khi đề cập đến những giải pháp cụ thể cho TP. HCM, ông Donald Lambert đã điểm lại hành trình trở thành trung tâm tài chính toàn cầu của Dubai – một trong bảy tiểu vương quốc của Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE).
“Vào những năm 2000, Dubai nổi lên như một trung tâm tài chính toàn cầu. Sự kiện này đã tác động đáng kể đến kinh tế của UAE. Ở đầu thiên niên kỷ, GDP của UAE đạt 104 tỷ USD. Mười tám năm sau, 2018, quy mô kinh tế của UAE không chỉ tăng gấp 4 lần mà quốc gia này còn giảm lệ thuộc vào dầu mỏ, các dịch vụ tài chính là động lực chính cho sự tăng trưởng. Dubai đạt được vị trí này phần lớn nhờ sức mạnh của ý chí chính trị. Dubai đã trở thành một trong những trụ cột của nền kinh tế thế giới như New York hay London” ông Donald Lambert cho biết.
Tuy nhiên, chuyên gia cấp cao của ADB nhận định “rất khó để lặp lại câu chuyện thành công của Dubai”.
Đầu tiên, Dubai có một số lợi thế về địa lý, đóng vai trò như là là trung tâm hàng không toàn cầu và có những hàng xóm dự trữ dầu luôn sẵn sàng để đầu tư.
Thứ hai, Dubai không có bất kỳ đối thủ rõ ràng nào ở khu vực liên quan đến lĩnh vực dịch vụ tài chính.
Thứ ba, ý chí chính trị của UAE là đặc biệt. Năm 2004, UAE đã sửa đổi Hiến pháp để cung cấp khuôn khổ pháp lý mà một trung tâm tài chính toàn cầu phải có.
Video đang HOT
Cuối cùng, UAE đã sẵn sàng chi tiêu, đầu tư để thay đổi thể chế chính sách, lương cho người nước ngoài, phát triển cơ sở hạ tầng và ưu đãi thuế.
Theo ông Donald Lambert , cách tiếp cận tốt hơn cho hầu hết các quốc gia muốn xây dựng trung tâm tài chính toàn cầu, bao gồm cả Việt Nam là phải tập trung vào việc trở thành một trung tâm tài chính quốc gia trước tiên.
Ông Donald Lambert cho rằng Việt Nam có nhu cầu đầu tư rất lớn. Riêng về cơ sở hạ tầng, nhu cầu đầu tư hàng năm ước tính từ 18 đến 20 tỷ USD. Nếu TP. HCM có thể trở thành một trung gian ngày càng hiệu quả trong việc thu hút vốn, từ các nguồn trong nước và cả quốc tế, nó sẽ không chỉ thúc đẩy phát triển kinh tế của Việt Nam mà còn tích luỹ, phát triển các kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để chuyển từ một trung tâm tài chính quốc gia thành trung tâm tài chính quốc tế.
“Muốn biến một trung tâm tài chính quốc gia thành trung tâm tài chính quốc tế cần đầu tư vào cơ sở hạ tầng cũng như giáo dục – đào tạo, nhưng cải cách chính sách là điều kiện thiết yếu”, chuyên gia Donald Lambert của ADB nói. Từ đó, ông Donald Lambert đề xuất 4 nhóm giải pháp mà Việt Nam nên thực hiện. Đây cũng chính là những đặc điểm chung của các trung tâm tài chính toàn cầu trên thế giới.
Thứ nhất là khung pháp lý toàn diện. Các nhà đầu tư quốc tế cần luật pháp rõ ràng, có thể dự đoán được. Việt Nam hiện có một số luật quan trọng cần được sửa đổi hoặc ban hành, bao gồm Luật Chứng khoán, Luật Tổ chức tín dụng và Luật về quan hệ đối tác công tư (PPP) để thu hút thêm đầu tư vào thị trường chứng khoán trong nước, ngân hàng và phát triển cơ sở hạ tầng.
Thứ hai là cơ sở hạ tầng vững chắc cho thị trường. Các nhà đầu tư bị thu hút vào những thị trường mà họ có thể giao dịch hiệu quả và tiết kiệm chi phí. Việt Nam đang tụt lại trong một số lĩnh vực quan trọng. Thời gian thanh toán (T ) vẫn đang trong quá trình cải thiện. Các quy định liên quan đến nghiệp vụ bù trừ ở Việt Nam chưa đạt chuẩn thế giới, buộc các ngân hàng nước ngoài phải giữ lại lượng vốn lớn để phòng ngừa rủi ro. Ngoài ra, Việt Nam không có đường cong lãi suất chuẩn ngắn hạn theo thị trường – nền tảng cho rất nhiều thành phần khác của thị trường vốn hiện đại.
Thứ ba là chính sách tiền tệ độc lập. Nhà đầu tư muốn các quyết định chính sách tiền tệ phải được thực hiện với một mức độ độc lập nhất định. Điều này bao gồm tính linh hoạt của tỷ giá hối đoái, lãi suất liên ngân hàng ổn định và mục tiêu kiểm soát lạm phát.
Thứ tư là cam kết mạnh mẽ trong lĩnh vực chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố. Việt Nam đã cam kết thực hiện các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm hành động tài chính về chống rửa tiền và chống lại việc tài trợ cho khủng bố. Đây là những yếu tố quan trọng để đảm bảo rằng các ngân hàng và nhà đầu tư nước ngoài có thể giao dịch an toàn tại thị trường trong nước.
Đến năm 2050, Việt Nam được dự đoán là một trong số 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Ông Donald Lambert tin rằng Nếu TP. HCM có thể phối hợp với chính quyền trung ương thực hiện những cải cách tài chính quan trọng nói trên, thì nó có khả năng đi theo mô hình của Tokyo, Thượng Hải, Mumbai và những nơi khác để trở thành trung tâm tài chính toàn cầu.
Hoàng Lan
Theo vietnamfinance.vn
Năm 2020, vốn hóa thị trường chứng khoán Việt Nam cần tăng 35%
Dựa theo giả định kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6,8% và lạm phát quanh ngưỡng 4% theo mục tiêu của Chính phủ trong năm 2020, vốn hóa thị trường cần tăng 35% trong năm 2020 để đạt 100% GDP.
Chia sẻ tại hội thảo thường niên "Tiềm năng và cơ hội đầu tư cổ phiếu bất động sản lần 3/2019" diễn ra tại TP HCM, chuyên gia tài chính Bùi Quang Tín, CEO Trường Doanh nhân BizLight cho hay: Hiện tại, vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam đang ở mức khoảng 4.548 triệu tỉ đồng, tương đương 195 tỉ USD.
Hội thảo thường niên "Tiềm năng và cơ hội đầu tư cổ phiếu bất động sản lần 3/2019" diễn ra tại TP HCM ngày 16/11
Trong thời gian tới, để tăng vốn hóa thị trường thì có hai cấu phần là giá tăng và số lượng công ty niêm yết tăng. Dựa theo giả định kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6,8% và lạm phát quanh ngưỡng 4% theo mục tiêu của Chính phủ trong năm 2020, vốn hóa thị trường cần tăng 35% trong năm 2020 để đạt 100% GDP.
Theo ông Tín, nhìn lịch sử thì việc thị trường đạt được mức tăng 35% trong 1 năm là rất khó xảy ra. Từ năm 2010 đến nay, chỉ có một lần duy nhất VN-Index đạt mức tăng trên 35% là vào năm 2017 với mức tăng 48%. Nguyên nhân là hàng loạt doanh nghiệp niêm yết mới như VJC, HVN, PLX, VPB, VRE.
Ngoài ra, các thương vụ thoái vốn lớn như VNM và SAB, cổ phiếu VNM và SAB đã tăng lần lượt 66% và 26% so với cuối năm 2016. Theo đó, IPO và thoái vốn ở một số doanh nghiệp lớn này đã chiếm hơn 50% tổng vốn hóa thị trường tăng thêm ở thời điểm 2017.
Từ đó, việc tăng cung bằng cổ phần hóa và thoái vốn là điều kiện tiên quyết để đạt được mục tiêu vốn hóa thị trường đạt 100% GDP.
Năm 2020, là thời gian cuối trong kế hoạch cổ phần hóa và thoái vốn của Chính phủ với hàng loạt doanh nghiệp lớn nằm trong danh sách thoái vốn và cổ phần hóa như Agribank, Vinachem, Mobifone, Vicem, Genco 1, Genco 2... ước tính tổng vốn hóa của doanh nghiệp lớn này ở mức khoảng 8 tỉ USD.
Việc đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa và thoái vốn tại các doanh nghiệp này sẽ giúp tăng đáng kể vốn hóa thị trường chứng khoán Việt Nam và đạt được mốc 100% GDP trong năm 2020. Thực tế cũng đã cho thấy, phần lớn doanh nghiệp Nhà nước đều có kết quả kinh doanh tích cực sau khi IPO.
"Tuy nhiên, ở một khía cạch khác, dù mục tiêu đạt được 100% GDP trong năm 2020 là một dấu mốc quan trọng, song thị trường vẫn cần phát triển ổn định và bền vững hơn. Thực tế cho thấy, sau khi đạt mức tăng trưởng mạnh trong năm 2017, thị trường chứng khoán đã nhanh chóng sụt giảm trong năm 2018", ông Tín chia sẻ.
Chuyên gia tài chính Bùi Quang Tín, CEO Trường Doanh nhân BizLight
Để giải quyết những vấn đề này, thị trường chứng khoán cần cải thiện nhiều yếu tố để có sự phát triển ổn định và bền vững. Theo đó, hiện tỉ lệ flee float (tỷ lệ khối lượng cổ phiếu tự do chuyển nhượng so với khối lượng cổ phiếu đang lưu hành trên thị trường) và vòng quay cổ phiếu đều chỉ ở mức trung bình so với thị trường trong khu vực, khiến cho thị trường trở nên kém hấp dẫn.
Hơn nữa, hơn 70% giá trị giao dịch đến từ nhà đầu tư cá nhân, những người xu hướng đầu tư ngắn hạn. Do đó, khi thị trường giảm mạnh sẽ ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư. Ngoài ra, mặc dù số lượng tài khoản chứng khoán tiếp tục tăng nhưng chỉ đạt khoảng 2,4% dân số Việt Nam.
"Cải thiện được những điều này, thị trường sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư tham gia, từ đó gián tiếp tác động tới sự tăng trưởng của chỉ số. Bên cạnh đó, thị trường tốt thì mới tạo động lực cho các doanh nghiệp đưa cổ phiếu lên niêm yết và giao dịch", chuyên gia Bùi Quang Tín nói.
Theo DT
Theo Petrotimes.vn
Vì sao thịt lợn rừng lai rẻ hơn lợn thường? Giá heo hơi thông thường đang tăng cao và có thể chạm mốc 80.000 đồng một kg còn thịt ba rọi tại nhiều chợ giá 180.000-200.000 đồng một kg. Trong khi đó, heo rừng lai trong nước - số lượng không nhiều lại được rao bán với giá rẻ hơn cả heo nuôi thường. Heo rừng lai được nhiều cơ sở online rao...