Chương trình giáo dục phổ thông: Đừng làm kiểu bình mới rượu cũ
Chương trình giáo dục phổ thông nếu chỉ thay đổi tên môn học, không khắc phục được những nhược điểm cũ thì rõ ràng không có lý do để tồn tại.
Đó là nhận định của thạc sĩ Lê Minh Tiến, tốt nghiệp thủ khoa khoa Xã hội học – ĐH KHXH&NV TP.HCM, lấy bằng thạc sĩ Xã hội học tại Bỉ, hiện là giảng viên của khoa Xã hội học – Công tác xã hội – Đông Nam Á, Đại học Mở TP.HCM.
- Bộ GD&ĐT vừa công bố Chương trình giáo dục phổ thông mới với nhiều thay đổi mạnh mẽ và kỳ vọng cho sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam trong thời gian sắp tới. Thạc sĩ có nhận xét gì về Chương trình giáo dục phổ thông mới này?
- Trong bất cứ lĩnh vực nào, khi muốn thay cái cũ bằng cái mới thì thông thường người ta phải tiến hành đánh giá toàn diện những cái được, cái tốt và những cái chưa được, những cái còn bất cập của cái cũ để từ đó thiết kế cái mới nhằm phát huy những cái được và khắc phục những bất cập của cái cũ.
Thạc sĩ Lê Minh Tiến.
Đọc Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông mới (GDPT), chúng tôi không thấy nhóm soạn thảo có bất cứ đánh giá nào về Chương trình GDPT hiện hành mà chỉ nói chung chung là “Chương trình giáo dục phổ thông bảo đảm kế thừa và phát triển những ưu điểm của các chương trình giáo dục phổ thông đã có của Việt Nam, đồng thời tiếp thu kinh nghiệm xây dựng chương trình của những nền giáo dục tiên tiến trên thế giới; bảo đảm kết nối chặt chẽ giữa các lớp học, cấp học với nhau và liên thông với chương trình giáo dục mầm non, chương trình giáo dục nghề nghiệp và chương trình giáo dục đại học”.
“Nền giáo dục hiện hành chủ yếu dạy để thi chứ không phải học để sống, học để làm người.
Do đó, các thầy cô gần như chỉ chú trọng dạy về kiến thức khoa học để thi chứ không dạy về kỹ năng, dạy về lối sống để học sinh có thể phát triển hài hòa về tri thức lẫn nhân cách”.
Thạc sĩ Lê Minh Tiến
Vấn đề đặt ra là theo Nhóm soạn thảo Chương trình mới, đâu là những ưu điểm của các chương trình đã có của Việt Nam để Chương trình mới kế thừa?
Các chương trình đã có là chương trình hiện hành hay toàn bộ những chương trình đã và đang được áp dụng cho nền GDPT Việt Nam từ trước đến nay?
Video đang HOT
Nhóm soạn thảo đã có những nghiên cứu, đánh giá nào và bằng phương pháp gì để nhận diện những ưu điểm của (các) chương trình cũ? Những nghiên cứu, đánh giá ấy có đáng tin cậy không, có được công bố và bảo vệ trước giới học thuật để đảm bảo tính khả tín hay không?
Rõ ràng là chúng ta không biết được những điều này và do đó không thể biết được Chương trình mới kế thừa cái gì, khắc phục cái gì của những chương trình cũ.
- Vậy theo thạc sĩ, đâu là những tồn tại, bất cập của chương trình cũ đã đến lúc cần phải thay đổi là gì?
- Những bất cập của Chương trình phổ thông hiện hành không đâu xa mà là những vấn đề được dư luận báo chí thường đề cập trong nhiều năm qua.
Trước hết là vấn nạn dạy thêm – học thêm: Đây là một trong những vấn đề xã hội nhức nhối của xã hội trong thời gian dài và đến nay vẫn chưa khắc phục được.
Trong nhiều nguyên nhân dẫn tới dạy thêm-học thêm là vì chương trình GDPT hiện hành bị đánh giá là quá nặng nề, chứa đựng quá nhiều kiến thức hàn lâm khiến cho các em học sinh không thể tiêu hóa nổi nếu chỉ học trên lớp.
Từ đó dẫn đến vấn nạn dạy thêm – học thêm dai dẳng trong xã hội. Vậy Chương trình mới có đảm bảo rằng nội dung chương trình sẽ chỉ cần học trên lớp là đủ mà không cần phải đi học thêm như chương trình hiện hành không?
Thứ hai, nền giáo dục hiện hành của chúng ta thường được đánh giá là nền giáo dục chủ yếu dạy học để thi chứ không phải học để sống, học để làm người. Do đó, các thầy cô gần như chỉ chú trọng dạy về kiến thức khoa học để thi chứ không dạy về kỹ năng, dạy về lối sống để học sinh có thể phát triển hài hòa về tri thức lẫn nhân cách.
Mà việc học kiến thức khoa học để thi lại do chương trình chứa đựng quá nhiều kiến thức nên giáo viên không có thời gian chứ không phải do giáo viên không muốn giáo dục nhân cách cho học sinh.
Vấn nạn kế tiếp của giáo dục phổ thông cũ là hình như chỉ đánh giá học sinh qua điểm số, phân biệt giữa môn chính và môn phụ khiến các em học sinh lẫn giáo viên phải đầu tư rất nhiều thời gian và công sức cho các môn chính để thi có điểm số cao và gần như lơ là thậm chí là xem thường các môn học bị cho là các môn phụ, tức những môn không được tính điểm để xét lên bậc học cao hơn (hiện lớp 5 lên lớp 6 chỉ dựa vào điểm của hai môn là Toán và Tiếng Việt).
Vậy Chương trình mới sẽ khắc phục điều này như thế nào hay vẫn giữ cách đánh giá như cũ? Đây là điều chưa được nói đến trong Dự thảo của Chương trình mới.
Qua một vài vấn đề nêu trên, chúng tôi cho rằng Nhóm soạn thảo Chương trình mới cần phải có một đánh giá toàn diện và khả tín về những ưu khuyết điểm của (các) chương trình GDPT cũ và phải thiết kế Chương trình mới trên cơ sở phát huy ưu điểm và khắc phục nhược điểm của các chương trình đã và đang được áp dụng tại Việt Nam.
Chứ nếu chỉ thay đổi tên môn học trong khi không khắc phục được những nhược điểm của các chương trình cũ thì rõ ràng là Chương trình mới không có lý do để tồn tại.
Theo Nguyễn Dũng / Tiền Phong
Có nên đưa lớp 10 xuống cấp 2?
Dự thảo chương trình giáo dục chưa thật tinh giảm, việc phân luồng không rõ ràng. Lớp 10 vẫn còn học rất nhiều môn.
Liên quan đến dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể Bộ GD&ĐT mới công bố để lấy ý kiến, PV đã có cuộc trao đổi với ông Trần Xuân Nhĩ - nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT.
Ông Nhĩ cho rằng khi có một tư tưởng hay thiết kế một chương trình mới nào phải nghĩ đến việc thực hiện nó như thế nào cho hiệu quả.
Khung chương trình giáo dục hiện hành thể hiện nhiều bất cập, học sinh chỉ nặng về vấn đề học chữ chứ chưa thực sự quan tâm đến vấn đề dạy người, dạy nghề như thế nào. Do đó, cần phải thay đổi.
Dự thảo mới cho thấy đến lớp 10 vẫn còn học rất nhiều môn.
Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể đã tích hợp được một số môn học ở cấp tiểu học và THCS để tránh sự trùng lặp, tránh được sự nặng nề. Dự thảo mới cũng chú ý vấn đề hội nhập, do vậy ngoại ngữ là một công cụ hết sức quan trọng.
Theo ông Nhĩ, chương trình cũ vẫn bảo thủ từ lớp 3 trở đi mới dạy ngoại ngữ, nhưng dự thảo mới đã đưa được việc dạy và học ngoại ngữ ngay từ lớp 1.
Ngoài ra, trong dự thảo mới có đề cập đến vấn đề tăng cường hướng nghiệp và thực hành. Một số chương trình bắt buộc, lựa chọn bắt buộc, lựa chọn không bắt buộc... cho thấy có sự mềm dẻo và đến lớp 10 cơ bản kiến thức phổ thông kết thúc.
Đến lớp 11, lớp 12 tăng cường việc lựa chọn hướng nghiệp, chuẩn bị cho việc vào đại học.
Tuy nhiên, có một điểm nếu so với Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục nói rằng xong THCS thì phải phân luồng. Nhưng ở đây hết lớp 10 mới bắt đầu một phần nào việc phân hóa mà chưa thấy rõ được việc phân luồng.
Đến lớp 10 vẫn còn học rất nhiều môn. Ông Nhĩ cho rằng dự thảo chưa thật tinh giảm mà còn hơi nặng nề, việc phân luồng chưa rõ ràng.
Theo ông Nhĩ, về cấu trúc chương trình có cảm giác như giáo dục của Singapore và ở một số nước khác. Nhưng ở Singapore, cấp 1 của họ là sáu năm, cấp 2 là bốn năm và cấp 3 chỉ có hai năm.
Còn Việt Nam vẫn là năm năm cấp 1, bốn năm cấp 2 và ba năm cấp 3. Do vậy, đặc biệt là cấp 3, rất nhiều lãnh đạo ở các trường rất lúng túng, bởi khi thực hiện sẽ có nhiều khó khăn về đội ngũ giáo viên phải làm sao bố chí cho hợp lý, tiết kiệm...
"Nếu giả dụ theo mô hình này trong điều kiện chúng ta đang thừa giáo viên cấp 1, cấp 2, thì phải chăng nên đưa cấp 1 giống như Singapore (6 năm), đưa lớp 10 xuống cấp 2 xem như hoàn chỉnh cấp 2. Sau đó đến cấp 3 thực hiện việc phân hóa, phân luồng cho rõ ràng" - ông Nhĩ nói.
Ông Nhĩ chia sẻ thêm nếu thêm một năm cho cấp 1 thì vẫn không thiếu giáo viên, cơ sở vật chất, không xảy ra sự căng thăng bởi vẫn sử dụng được đội ngũ giáo viên như hiện tại.
Tiếp theo, nếu đưa lớp 10 xuống cấp hai vẫn học theo các bộ môn, giáo viên cấp 2 vẫn có thể vươn lên dạy được. Vấn đề còn lại là tập trung cho việc phân hóa, phân luồng ở cấp 3 và đào tạo lại đội ngũ cán bộ để đáp ứng yêu cầu mới.
Ông Nhĩ đề xuất: "Theo mô hình của Singapore cũng tốt thôi, ở cấp 1, cấp 2 hoàn chỉnh kiến thức phổ thông, cấp ba phân hóa, phân luồng một cách triệt để. Hiện giờ, dự thảo mới đưa ra ý tưởng nhưng chưa đưa ra cách thực hiện".
Bên cạnh đó, ông Nhĩ cũng cho hay trên thế giới bất cứ nước nào cũng phải bố trí một kỳ thi THPT vì bằng THPT sẽ đi theo học sinh suốt cả đời, đánh giá một giai đoạn đào tạo. Chương trình mới coi nhẹ việc đó, mà chú trọng nhiều vào việc để học sinh thi vào đại học.
"Có lúc, có người cho rằng nếu thi phổ thông đỗ nhiều như vậy thì cần gì phải thi theo tôi quan điểm đó là không đúng" - ông Nhĩ nói.
Theo Phi Hùng / Pháp Luật TP.HCM
Quá nhiều môn, lấy sức đâu để học! Nhiều ý kiến lo ngại dự thảo chương trình tổng thể giáo dục phổ thông sẽ khó đạt được mục tiêu đề ra bởi nội dung môn học lẫn cách đánh giá năng lực chưa hợp lý. Dự thảo chương trình tổng thể của bộ chương trình giáo dục phổ thông vừa được Bộ GD&ĐT lấy ý kiến tối 12/4 đã nhận được...