Chúng ta phải cải cách đủ mạnh
Đại dịch Covid-19 làm cho việc đạt mục tiêu nhiệm kỳ trở thành thách thức chưa từng có; tạo nên áp lực thúc đẩy đổi mới.
Cần có cải cách, tái cơ cấu đủ mạnh để đạt các mục tiêu tăng trưởng và phát triển.
Tiến sỹ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho rằng, Việt Nam cần thích nghi và linh hoạt với đặc trưng của tình hình hiện nay là VUCA (V: Volatility – Biến động; U: Uncertainty – Bất định; C: Complexity – Phức tạp; A: Ambiguity – Mơ hồ). Đây là khái niệm do Đại học Harvard đề xuất.
Chúng ta rất khó dự đoán dài hạn và trung hạn. Phải thường xuyên quan sát, phân tích, quyết định linh hoạt trong bối cảnh mỗi nước đều đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu.
Sức chống chịu trong tình thế bất định
Chúng ta đã lỡ mất nhịp mua vắc xin nhưng may là vị thế địa chính trị tốt nên được viện trợ 118 triệu liều, trong đó có những quốc gia tặng rất nhiều vắc xin cho chúng ta.
Đợt cách ly và và giãn cách xã hội trong làn sóng dịch thứ tư vừa rồi làm cho tê liệt kinh doanh, sản xuất và lưu thông.
Năm 2020, dù tăng trưởng rơi xuống 2,9% nhưng vẫn cao hơn nhiều so với tăng trưởng -4% của thế giới. Tức là, chúng ta nằm trong số ít “ngôi sao” tăng trưởng dương trong một thế giới suy thoái nặng nề.
Tới đây, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách và tái cơ cấu kinh tế. Ảnh: Lê Anh Dũng
Trong khi đó, cách chống dịch lần thứ tư đã làm kinh tế tăng trưởng âm trong quý 3 và dự kiến sẽ chỉ đạt 2-2,5% trong năm nay, mức giảm sâu so với tăng trưởng trung bình khoảng 5-6% của thế giới. Đây là điều rất cần suy nghĩ nếu muốn tránh khỏi sự lạc điệu, thế giới đã tăng trưởng trở lại nhưng chúng ta vẫn đang ở đáy.
Tuy vậy, chúng ta vẫn có những điểm tích cực như kinh tế vĩ mô, tăng trưởng xuất khẩu nhìn chung khả quan và cam kết FDI tiếp tục tăng.
Bức tranh kinh tế sau khi bỏ giãn cách từ đầu tháng 10 dần tốt lên, có tăng trưởng ở một số lĩnh vực. Về chỉ số sản xuất công nghiệp 10 tháng, nhiều ngành có tăng trưởng dương, chỉ một số ngành như thành lập mới doanh nghiệp, du lịch, giao thông gặp khó khăn. Đặc biệt, ngành du lịch thiệt hại lớn, không biết bao nhiêu khách sạn, nhà hàng… đóng cửa, nhân viên du lịch sống thế nào!
Về cơ cấu kinh tế, sản xuất nông nghiệp tốt và chúng ta may có nông nghiệp là bệ đỡ. Nông nghiệp bây giờ vững vàng, không chỉ các vùng ở Đà Lạt, Bắc Giang, Bắc Ninh xuất hiện nhà kính quy mô lớn, xuất khẩu hoa, rau quả sang Nhật Bản, Hàn Quốc. Có những công ty trồng rau củ được đối tác Nhật Bản yêu cầu lắp camera trong nhà kính để họ kết nối, kiểm tra bất cứ lúc nào.
Chúng ta cũng có cơ hội khi kinh tế thế giới hồi phục nhanh, đó là đầu tư nước ngoài và Việt Nam phục hồi nhanh. Tất cả hiệp hội doanh nghiệp FDI có mặt tại Việt Nam đều phản đối việc cách ly phong toả khắc nghiệt như vừa rồi. Tuy nhiên, những tin đồn nói đầu tư nước ngoài bỏ Việt Nam là không hề có.
Video đang HOT
Họ đã đầu tư vào đây mấy trăm triệu USD, thị trường ổn định, dân số đông và trẻ thì họ không bỏ đi, nhất là khi chúng ta đa dạng hoá quan hệ kinh tế sau khi ký nhiều hiệp định thương mại tự do với các đối tác lớn trên toàn cầu.
Vấn đề là chúng ta thu hút FDI vẫn bằng thâm dụng lao động và lao động giá rẻ. Đây không phải là niềm tự hào, ngược lại là đằng khác! Động lực nền giáo dục có nhiều vấn đề.
Chúng ta cần phát triển những vùng động lực cho tăng trưởng ở cả 3 miền. Có những địa phương như Hải Phòng, Quảng Ninh, Sơn La tiến hành cải cách mạnh mẽ hơn Hà Nội. Đó là những tín hiệu rất tích cực.
Về tăng trưởng năm 2022, nền kinh tế sẽ tăng trưởng 4,5% ở kịch bản thấp, theo đó tình hình dịch vẫn khó đoán định, xuất hiện biến chủng mới; các đối tác thương mại lớn không phục hồi như kỳ vọng và hồi phục sản xuất trong nước gặp khó khăn, các chính sách hỗ trợ của Chính phủ trễ.
Ở kịch bản cao, kinh tế sẽ tăng trưởng 6,7% nếu bệnh dịch hoàn toàn được khống chế; chuỗi cung ứng phục hồi nhanh và chi phí logistics giảm nhanh, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân đạt hiệu quả cao.
Bức tranh kinh tế sau khi bỏ giãn cách từ đầu tháng 10 dần tốt lên, có tăng trưởng ở một số lĩnh vực. Ảnh: Lê Anh Dũng
Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế vẫn rất manh mún, đóng góp của khu vực doanh nghiệp tư nhân có đăng ký chỉ chiếm 12% GDP, của doanh nghiệp nhà nước 18% GDP, FDI 20% GDP và kinh tế phi chính thức hộ gia đình lên tới 30-32% GDP.
Đại dịch đã làm đứt gãy nhịp tăng trưởng kinh tế nước ta; làm cho việc đạt mục tiêu nhiệm kỳ trở thành thách thức chưa từng có; tạo nên áp lực đủ mức thúc đẩy đổi mới. Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế hơn 30 năm qua giảm dần, mỗi kỳ chiến lược giảm từ 0,5-0,9 điểm %; và phục hồi kinh tế sau các đợt khủng hoảng không cao đột biến.
Chúng ta phải có cải cách, tái cơ cấu đủ mạnh để đạt các mục tiêu tăng trưởng và phát triển của Đại hội 13.
Đẩy mạnh cải cách cơ cấu
Tới đây, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách và tái cơ cấu kinh tế như các văn kiện đã nhấn mạnh trong nhiều năm qua: Cải cách thể chế; tái cấu trúc DNNN, hệ thống tài chính ngân hàng, đầu tư công, nông nghiệp…; Tận dụng hội nhập, các FTA, sự dịch chuyển thu hút FDI chất lượng; Thúc đẩy sáng tạo, chuyển đổi số.
Tôi đặc biệt nhấn mạnh nhu cầu chuyển đổi kinh tế số ngay để tăng hiệu quả quản lý, tăng cường công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Cần thành lập các trung tâm start-ups, các trung tâm sáng tạo, trung tâm tài chính.
Chúng ta cần hoàn thiện khung khổ pháp lý để đảm bảo cho các thị trường nhân tố sản xuất vận hành; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, có tính đột phá, vượt trội và tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh.
Cùng với đó là đẩy nhanh chương trình tái cơ cấu, trọng tâm là DNNN, phát triển các tập đoàn tư nhân, SMEs, hộ kinh doanh. Đặc biệt, chúng ta cần tận dụng hội nhập qua việc gắn kết chặt chẽ đối tác quan trọng với thị trường và tận dụng các FTA, kết nối theo chuỗi giá trị.
Về cải cách bộ máy nhà nước, cần cụ thể hóa cơ chế bảo vệ và đảm bảo động lực khuyến khích để cán bộ dám nghĩ, dám sáng tạo, dám làm vì sự phát triển đất nước.
Liên quan đến việc hoàn thiện các thị trường nhân tố sản xuất, tôi xin nói rõ thêm về thị trường quyền sử dụng đất nông nghiêp và đưa kinh tế số vào nông nghiệp, nông thôn.
Thị trường quyền sử dụng đất sẽ tăng thêm quyền cho nông dân trong bảo vệ đất đai của mình và giúp nông dân vốn hóa quyền sử dụng đất. Nhờ đó, đất nông nghiệp sẽ được sử dụng công bằng hơn, hiệu quả hơn, tạo ra khối lượng vốn lớn cho nền kinh tế và sẽ tạo ra một cuộc canh tân trong sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn.
Chúng ta sẽ huy động được nhiều nguồn lực hơn, phân bổ nguồn lực hợp lý hơn, sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn. Tất cả điều đó sẽ dẫn đến đạt được tốc độ tăng trưởng cao, thậm chí vượt quá mục tiêu chiến lược. Tôi cho rằng, phát triển thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp sẽ tạo nên cuộc cải cách ruộng đất lần hai, chuyển từ giao công cụ sản xuất sang giao tài sản cho nông dân.
Cần cơ chế hỗ trợ riêng cho 'đầu tàu' TP Hồ Chí Minh
Dưới ảnh hưởng tiêu cực của làn sóng dịch COVID-19, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) TP Hồ Chí Minh quý III vừa qua ghi nhận con số thấp kỷ lục chưa từng có - âm 24,39%, cộng thêm nhiều lĩnh vực, nhiều ngành gãy đổ.
Bước sang tháng 10, 11 dù hoạt động sản xuất công nghiệp, xuất khẩu... có tín hiệu tích cực hơn, tuy nhiên bức tranh kinh tế thành phố nhìn chung vẫn rất khó khăn.
Theo đề xuất của các chuyên gia, doanh nghiệp, với việc đóng góp 22% GDP của cả nước và khoảng 27% tổng thu ngân sách, TP Hồ Chí Minh đang cần cơ chế hỗ trợ nhiều hơn để có thể nhanh chóng phục hồi, tiếp tục là "đầu tàu kinh tế" của cả nước.
Doanh nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn
Sau hơn 1 tháng "mở cửa", hoạt động các doanh nghiệp du lịch, lữ hành trên địa bàn TP Hồ Chí Minh vẫn còn rất khó khăn. Ảnh minh họa: Hoàng Tuyết/Báo Tin tức
Sau hơn 1 tháng "mở cửa", hoạt động các doanh nghiệp du lịch, lữ hành trên địa bàn TP Hồ Chí Minh vẫn còn rất khó khăn. Việc tổ chức các tour du lịch mới chỉ mang tính "thăm dò" là chính. Phần lớn các địa phương hiện đã áp dụng Nghị quyết 128/NQ-CP ban hành Quy định tạm thời "Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19", thế nhưng để tổ chức được các tour về tỉnh, doanh nghiệp phải đáp ứng rất nhiều quy định phòng dịch và mỗi nơi quy định mỗi khác khiến việc tổ chức tour gặp rất nhiều khó khăn, chưa kể phát sinh nhiều chi phí liên quan.
Ông Nguyễn Văn Mỹ, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty TNHH Du lịch Lửa Việt cho biết, trải qua 2 năm bị ảnh hưởng của dịch bệnh, doanh thu hạn chế, nguồn lực tài chính của công ty theo đó ngày càng cạn kiệt dẫn đến việc trợ cấp lương cho nhân viên ngày càng thấp. Dù đã mở cửa, nhưng hoạt động du lịch hiện vẫn chưa thể phục hồi như mong muốn. Không ít nhân viên du lịch đã bỏ nghề hoặc phải kiếm việc làm thêm vì không thể cầm cự được.
"Điều doanh nghiệp mong muốn nhất hiện nay và chúng tôi đã đề xuất rất nhiều lần, đó là ngân hàng chính sách cho doanh nghiệp được cho vay trả lương lao động với lãi suất 0%. Nhà nước có thể dựa vào báo cáo tài chính, những doanh nghiệp trước đây đóng thuế nhiều để làm căn cứ cho vay. Thực tế chính sách hỗ trợ này hiện đã có, chỉ là việc tiếp cận vẫn còn rất nhiều khó khăn", ông Nguyễn Văn Mỹ nói.
Đối với chính sách hỗ trợ giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp theo Nghị quyết sô 406/NQ-UBTVQH15 ngày 19/10/2021 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về ban hành một số giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19, đại diện công ty này cũng cho biết, với tình hình hiện nay, kết quả kinh doanh năm 2021 khó có thể khả quan với các doanh nghiệp du lịch, lữ hành, thậm chí còn thua lỗ rất lớn. Vì vậy, việc giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp cũng không có tác dụng hỗ trợ, trong khi đây là đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trong các đợt dịch bùng phát.
Chính sách hỗ trợ giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp cũng không có nhiều tác động tích cực đến các doanh nghiệp sản xuất như cao su - nhựa, cơ khí - điện... ở Tp. Hồ Chí Minh, do kết quả kinh doanh không mấy tích cực trong năm nay.
Theo ông Nguyễn Quốc Anh, Giám đốc Công ty cao su Đức Minh kiêm Chủ tịch Hội Cao su - Nhựa TP Hồ Chí Minh, năm nay phần lớn các doanh nghiệp cao su - nhựa, nhất là có doanh thu dưới 200 tỷ đồng sẽ không có lãi, do giãn cách kéo dài, sản xuất 3 tại chỗ thì chi phí rất cao. Chưa kể, hiện chi phí nguyên vật liệu, logistics... đều tăng cao, trong khi tiêu thụ còn khó khăn đang khiến doanh nghiệp khó có thể phục hồi mạnh mẽ như trước. Vì vậy, chính sách giảm thuế thu nhập doanh nghiệp không mang lại lợi thế cho doanh nghiệp trong ngành.
"Do đứt gãy chuỗi cung ứng trong một thời gian dài giãn cách xã hội, hiện nhiều doanh nghiệp ngành cao su - nhựa tiêu thụ nội địa đang thiếu hụt dòng tiền để chi trả các khoản lãi vay ngân hàng. Vì vậy, chúng tôi mong muốn các ngân hàng thương mại đẩy mạnh cơ cấu lại nợ, giãn nợ hoặc khoanh nợ cho các doanh nghiệp trong ngành. Đồng thời, Chính phủ và các bộ ngành có chính sách kích cầu tiêu dùng, tăng sức mua hàng hóa trên thị trường, qua đó cũng giúp dòng tiền của doanh nghiệp ổn định trở lại", ông Nguyễn Quốc Anh nói.
Ngoài "đau đầu" về vấn đề tìm lao động thay thế cho lực lượng đã trở về quê do COVID-19, không ít doanh nghiệp dệt may cũng đang gặp khó khăn trong việc tiếp cận gói hỗ trợ lãi suất.
Ông Phạm Văn Việt, Phó Chủ tịch Hội Dệt May - Thêu Đan TP Hồ Chí Minh cho biết, dự kiến, các doanh nghiệp phải mất trên 2 năm mới có thể khôi phục lại hoạt động như thời điểm trước dịch, trong khi điều kiện cho vay của ngân hàng vẫn không đổi, đòi hỏi phải không có nợ xấu, có tài sản đảm bảo hoặc có doanh thu, lợi nhuận... Do đó, nếu không sớm ban hành một cơ chế đặc biệt trong việc hỗ trợ vốn thì các doanh nghiệp sẽ rất khó để phục hồi.
Trong đợt dịch vừa qua, các doanh nghiệp bất động sản trên địa bàn TP Hồ Chí Minh cũng gặp không ít khó khăn do không tiếp cận được với khách hàng, không giới thiệu, mở bán được sản phẩm.... Tuy nhiên, ngay sau khi mở cửa trở lại, các chủ đầu tư đều có kế hoạch ra hàng, chào bán mạnh các sản phẩm dự án.
Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP Hồ Chí Minh cho rằng, thị trường có khả năng tự phục hồi. Các doanh nghiệp bất động sản không xin nhà nước hỗ trợ tiền mà chỉ mong được tháo gỡ các vấn đề liên quan đến cơ chế, chính sách. Chẳng hạn, vấn đề đất công xen cài đã được tháo gỡ nhưng khâu tổ chức thực hiện còn chậm; các nút thắt về thủ tục pháp lý liên quan đến triển khai dự án...
Cần chính sách hỗ trợ riêng
Dưới góc độ của chuyên gia, Tiến sĩ Trần Du Lịch cho rằng, để phục hồi kinh tế TP Hồ Chí Minh cần những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp mạnh hơn giải pháp chung của cả nước. Trong đó, quan trọng nhất là dòng vốn cho doanh nghiệp, nhất là với những doanh nghiệp hiện không đủ điều kiện để vay do nợ quá hạn. Các chính sách miễn thuế không có nhiều ý nghĩa, vì phần lớn doanh nghiệp gãy đổ và rất cần dòng tiền mới để hoạt động.
Đối với một số doanh nghiệp "nợ chồng nợ", không còn "quota" để vay nữa, nhưng có phương án kinh doanh khả thi thì có thể tạo điều kiện cho họ thông qua một gói kích cầu hỗ trợ. Giải pháp này gọi là "nuôi nợ để đòi nợ", xuất phát từ một chương trình từ giai đoạn năm 2008-2009, còn gọi là chương trình "tay 3" gồm nhà nước, ngân hàng thương mại và doanh nghiệp.
Sau khi được thẩm định và cấp vốn, họ có thể làm ra tiền để trả nợ cũ cũng như nợ mới. Giải pháp này đã giúp nhiều doanh nghiệp ở TP Hồ Chí Minh khi đó thay vì "chết" thì phục hồi phát triển, trả được nợ cũ, không vướng nợ quá hạn.
"Kinh nghiệm từ giai đoạn trước là những doanh nghiệp này thường sẽ lo làm ăn, trả nợ, không nợ quá hạn. Vấn đề hiện nay là cần có cơ chế để ngân hàng thương mại không sợ trách nhiệm, vì những khoản vay này thường vượt ngoài khuôn khổ quy định. Những giải pháp đã có trong quá khứ, đã thành công có thể áp dụng trong điều kiện hiện nay", Tiến sĩ Trần Du Lịch đề xuất.
Ngoài ra, thành phố cần có các biện pháp đẩy mạnh đầu tư công, đẩy mạnh chi ngân sách để kích thích tổng cầu nền kinh tế, cũng là cách tạo dòng vốn hỗ trợ doanh nghiệp.
Theo vị chuyên gia này, để có nguồn tiền hỗ trợ doanh nghiệp, thành phố có thể đề nghị Chính phủ cho phép phát hành trái phiếu chính quyền địa phương vượt khung. Bởi khi thành phố phục hồi trở lại, khả năng trả nợ rất cao.
Mặt khác, thành phố cũng có thể tính toán đến các nguồn khác như đấu giá quỹ đất, nguồn vốn cổ phần hóa... để tạo nguồn riêng bổ sung gói hỗ trợ doanh nghiệp, bên cạnh các gói Chính phủ hỗ trợ chung cho cả nước. Song song với đó, cần tiếp tục cải cách một số thủ tục hành chính liên quan đến doanh nghiệp để doanh nghiệp chỉ lo tổ chức lại sản xuất, không phải lo về thủ tục.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển TP Hồ Chí Minh cũng cho rằng, các chính sách hỗ trợ hiện nay như Nghị quyết 406/NQ-UBTVQH vẫn còn chưa bao quát và đầy đủ, chưa tính đến đối tượng doanh nghiệp thua lỗ. Với tình hình khó khăn của cộng đồng doanh nghiệp, chính sách hỗ trợ cần xem xét hỗ trợ nhiều hơn đến những doanh nghiệp nằm trong vùng giãn cách, bị phong toả kéo dài. Đồng thời, phân chia từng nhóm đối tượng khác nhau một cách phù hợp thì chính sách hỗ trợ mới phát huy hiệu quả.
Chẳng hạn, đối với chính sách tín dụng, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân cho rằng, vấn đề cần tháo gỡ nhất hiện nay là làm sao để doanh nghiệp tiếp cận được vốn ưu đãi từ ngân hàng. Với những điều kiện cho vay như hiện nay, doanh nghiệp sẽ rất khó tiếp cận, song nếu nới điều kiện vay vốn thì bản thân các ngân hàng cũng gặp rất nhiều khó khăn và có nhiều rủi ro.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân, trên thực tế chi phí trả lãi hiện nay vẫn còn cao, tuy nhiên các ngân hàng khó có thể hạ sâu lãi vay trong bối cảnh lạm phát có khả năng tăng cao và huy động vốn còn khó khăn. Do đó, Nhà nước phải có một quỹ hỗ trợ, một nguồn lực ngân sách đủ lớn để thực hiện hỗ trợ việc vay vốn cho doanh nghiệp. Quỹ này có thể hình thành từ nguồn đầu tư công nhưng chưa phân bổ vì chưa có dự án hay dự án không triển khai.
Mặt khác, nhiều doanh nghiệp hiện muốn tiếp cận vốn vay từ ngân hàng để phục hồi sản xuất kinh doanh nhưng không thể vay, do không còn tài sản thế chấp. Vì vậy, Chính phủ cũng cần có một quỹ bảo lãnh tín dụng, để giải quyết bài toán thiếu vốn phát triển sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Lo vòng xoáy lạm phát cao, tăng trưởng thấp: Khó nhất là tiêu tiền vào đâu Tăng trưởng GDP năm 2021 trong điều kiện tốt nhất sẽ vào khoảng gần 2%, khả dĩ hơn là khoảng từ 1,5-2%. Khó khăn trong ngắn hạn Năm 2021, Việt Nam thực sự đối mặt với Covid-19 ở một quy mô và mức độ nghiêm trọng hơn rất nhiều so với năm 2020. Nền kinh tế, vì vậy, bị ảnh hưởng nặng nề...