Chuẩn nghề nghiệp giáo viên: Cần lộ trình dài hơi
Việc phân loại giáo viên thành từng hạng, ngoài bằng cấp chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm thì phải có các chứng chỉ kèm theo như Tin học, Ngoại ngữ… đang là vấn đề nhận được không ít ý kiến trái chiều của dư luận. Đáng chú ý, quanh vấn đề trên, nhiều chuyên gia cho rằng cần có một lộ trình dài, chứ không thể áp dụng ngay cho có.
Đáp ứng nhiều tiêu chuẩn
Theo kế hoạch, từ 10/10/2018, Quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông với 5 tiêu chuẩn và 15 tiêu chí ban hành kèm theo Thông tư số 20/2018/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) chính thức có hiệu lực.
Căn cứ vào kết quả đánh giá từng tiêu chí, giáo viên sẽ được xếp loại đánh giá với các mức độ “đạt”, “khá”, “tốt” hoặc “không đạt”.
Theo đó, mục đích của việc ban hành Quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông nhằm làm căn cứ để giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông tự đánh giá phẩm chất, năng lực; xây dựng và thực hiện kế hoạch rèn luyện phẩm chất, bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
Đồng thời làm căn cứ để cơ sở giáo dục phổ thông đánh giá phẩm chất, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ giáo viên; xây dựng và triển khai kế hoạch bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên đáp ứng mục tiêu giáo dục của nhà trường, địa phương và của ngành giáo dục.
Thông tư quy định, giáo viên tự đánh giá theo chu kỳ 1 năm một lần vào cuối năm để tự xác định mức độ đạt được theo chuẩn, từ đó xây dựng kế hoạch rèn luyện phẩm chất nghề nghiệp và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Người đứng đầu cơ sở giáo dục phổ thông tổ chức đánh giá giáo viên theo chu kỳ 2 năm một lần. Trong trường hợp đặc biệt, được sự đồng ý của cơ quan quản lý cấp trên, nhà trường rút ngắn chu kỳ đánh giá giáo viên. Trong trường hợp đặc biệt, được sự đồng ý của cơ quan quản lý cấp trên, nhà trường rút ngắn chu kỳ đánh giá giáo viên.
Video đang HOT
5 tiêu chuẩn bao gồm: Phẩm chất nhà giáo; phát triển chuyên môn, nghiệp vụ; xây dựng môi trường giáo dục; phát triển mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình – xã hội và sử dụng ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc, ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác và sử dụng thiết bị công nghệ trong dạy học, giáo dục.
Ở tiêu chuẩn cuối cùng, mức đạt là giáo viên có thể sử dụng được các từ ngữ giao tiếp đơn giản bằng ngoại ngữ (ưu tiên tiếng Anh) hoặc ngoại ngữ thứ hai (đối với giáo viên dạy ngoại ngữ) hoặc tiếng dân tộc đối với những vị trí việc làm yêu cầu sử dụng tiếng dân tộc; mức khá là giáo viên có thể trao đổi thông tin về những chủ đề đơn giản, quen thuộc hằng ngày hoặc chủ đề đơn giản, quen thuộc liên quan đến hoạt động dạy học, giáo dục (ưu tiên tiếng Anh) hoặc biết ngoại ngữ thứ hai (đối với giáo viên dạy ngoại ngữ) hoặc tiếng dân tộc đối với những vị trí việc làm yêu cầu sử dụng tiếng dân tộc và mức tốt là giáo viên có thể viết và trình bày đoạn văn đơn giản về các chủ đề quen thuộc trong hoạt động dạy học, giáo dục hoặc ngoại ngữ thứ hai (đối với giáo viên dạy ngoại ngữ) hoặc tiếng dân tộc đối với những vị trí việc làm yêu cầu sử dụng tiếng dân tộc.
Khảo sát về vấn đề liên quan, nhiều giáo viên cho rằng việc phân hạng là cần thiết, vừa đảm bảo sự công bằng, vừa là động lực thúc đẩy giáo viên chịu khó nghiên cứu, bồi dưỡng nâng cao tay nghề, nhất là đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục đặt ra.
Tuy nhiên, cũng theo nhiều giáo viên, nếu áp dụng cứng nhắc thì rất nhiều giáo viên sẽ không đạt được tiêu chuẩn này, bởi sử dụng được ngoại ngữ phục vụ cho công việc còn là một thách thức lớn đối với ngay cả các giáo viên bộ môn ngoại ngữ. Nhiều ý kiến còn cho rằng, những quy định trong Thông tư về Tin học, Ngoại ngữ vô tình đã tiếp tay cho tiêu cực, còn giáo viên phải hao tổn một số tiền lớn cho những trung tâm “chứng chỉ” để bất cứ khi nào “cần sẽ có”.
Cần nhưng không để cho có
Chia sẻ về vấn đề liên quan, theo TS Nguyễn Tùng Lâm (Chủ tịch Hội Tâm lý giáo dục Hà Nội) đây là chủ trương đúng đắn và phù hợp với thời đại. Giáo viên phổ thông sử dụng được tiếng Anh thì quá tốt để phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và cũng sẽ khơi gợi được phong trào học ngoại ngữ cho học sinh. Tuy nhiên, giữa mong muốn và việc đưa được tiêu chuẩn này vào thực tế là điều rất khó khăn và cần có một lộ trình lâu dài.
Trước đó, liên quan đến vấn đề đạt chuẩn và công nhận đạt chuẩn trong ngành Giáo dục, tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ tại kỳ họp Quốc hội diễn ra vào tháng 6 vừa qua, đại biểu Nguyễn Sỹ Cương (Ninh Thuận) đã từng đặt câu hỏi: “Chuẩn giả trong giáo dục, trường đạt chuẩn, giáo viên đạt chuẩn nhưng thực tế không đạt. Các địa phương cho nợ chuẩn, Bộ có biết không? Giải pháp của vấn đề này là gì?”.
Và nhận định về tiêu chí này, Hiệu trưởng một trường quốc tế tại thành phố Hồ Chí Minh cũng cho rằng, quy định không sai nhưng chưa thực tế: “Không hiểu Bộ yêu cầu kỹ năng ngoại ngữ làm gì, sử dụng như thế nào? Đừng làm cho toàn ngành đi học lấy chứng chỉ ngoại ngữ rồi vứt xó, tốn kém chi phí cho xã hội”.
Thực tế hiện nay, ngay cả nhiều giáo viên ngoại ngữ cũng không đạt chuẩn. Vì thế đưa ra những yêu cầu về ngoại ngữ thì Nhà nước cần có sự hỗ trợ để giáo viên nâng cao năng lực chứ không phải quy định đánh đố.
Theo TS Nguyễn Tùng Lâm, điều quan trọng là làm từ gốc, tức là cần siết chặt đầu vào các trường sư phạm; tổ chức dạy, học, kiểm tra đánh giá nghiêm túc để đào tạo, cho ra trường những giáo viên thật sự có chất lượng, thay đổi cách thi tuyển viên chức giáo viên sao cho thực chất, công bằng, hiệu quả. Bên cạnh đó, để khuyến khích giáo viên tự hoàn thiện mình thì đi kèm chuẩn mới cần có chế độ lương, thưởng tương xứng với các mức độ khác nhau theo bảng đánh giá giáo viên.
Ngoài ra, nhiều giáo viên cũng hy vọng rằng, Quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông mới mà Bộ GD&ĐT áp dụng trong năm học này, cách đánh giá phải loại bỏ được sự cảm tính, chủ quan, tiêu cực, tránh nể nang, cào bằng. Đồng thời, để việc đánh giá giáo viên theo chuẩn thực sự hiệu quả và đáng tin cậy, một tổ chức kiểm định đánh giá giáo viên độc lập, khách quan có thể là một giải pháp mà nhiều thầy cô giáo mong đợi.
Theo laodongthudo
Tiêu chuẩn ngoại ngữ: Khó như "leo cột mỡ"
Đối với giáo viên (GV) dạy ngoại ngữ trong trường học phổ thông nhiều nơi còn chưa thực sự "chuẩn" thì yêu cầu mới đối với các thầy cô giáo khác lại càng xa vời.
TS Nguyễn Tùng Lâm-Hiệu trưởng Trường THPT Đinh Tiên Hoàng (Hà Nội)
Trong bộ tiêu chuẩn quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông có tiêu chuẩn thứ 5 về ngoại ngữ và công nghệ thông tin hiện đang gặp nhiều ý kiến phản đối từ phía các GV và chuyên gia giáo dục. Cụ thể để đạt mức xếp loại tốt, các GV phải có thể viết và trình bày đoạn văn đơn giản về các chủ đề quen thuộc trong hoạt động dạy học, giáo dục bằng ngoại ngữ (ưu tiên tiếng Anh).
Theo TS Nguyễn Tùng Lâm-Hiệu trưởng Trường THPT Đinh Tiên Hoàng (Hà Nội) thì đây là chủ trương đúng đắn và phù hợp với thời đại. "GV phổ thông sử dụng được tiếng Anh thì quá tốt để phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và cũng sẽ khơi gợi được phong trào học ngoại ngữ cho học sinh. Tuy nhiên, giữa cái mong muốn và việc để đưa được tiêu chuẩn này vào thực tế là điều rất khó khăn và cần có một lộ trình lâu dài".
"Thực tế hiện nay, việc chưa thể chuẩn hóa được việc dạy và học tiếng Anh trong trường đại học, cao đẳng thì làm sao có thể yêu cầu chuẩn hóa tiếng Anh trong môi trường giáo dục phổ thông. Cái gốc của chúng ta chưa có, thì không thể ngay lập tức yêu cầu cái ngọn phải xanh tươi được.
Tôi kiến nghị cần phải có một lộ trình, thời gian và điều kiện cụ thể để GV hoàn thiện. Trước mắt là cần phải chuẩn hóa các GV dạy tiếng Anh cái đã, rồi dần dần sẽ tới các GV bộ môn khác" - ông Lâm cho hay.
Đột xuất áp dụng cho giáo viên tiêu chuẩn thì khó như "leo cột mỡ". Ảnh: I.T
PGS-TS Trần Xuân Nhĩ - nguyên Thứ trưởng Bộ GDĐT nhận định rằng cần phải xem lại tiêu chuẩn này áp dụng cho đối tượng nào, nếu đột xuất áp dụng cho GV giáo dục phổ thông thì khó như "leo cột mỡ" vậy. Ví dụ như áp dụng cho đối tượng là giáo viên đang công tác lâu năm rồi thì rất khó để thực hiện. "Muốn đưa vào thực tế thì phải có những đột phá, ví dụ như sinh viên sư phạm trước khi ra trường cần phải vượt qua được một ngưỡng ngoại ngữ nào đó và đặc biệt phải đảm bảo là ngưỡng này đúng chuẩn, học thật, thi thật. Ngoài ra có thể yêu cầu thêm ngoại ngữ đầu vào sư phạm, có vậy thì tiêu chuẩn về ngoại ngữ trong giáo viên phổ thông mới đi được vào thực tiễn. Đây là một quá trình vô cùng gian khổ chứ không hề đơn giản" - ông Nhĩ chia sẻ.
Cũng theo TS Nguyễn Tùng Lâm, có nhiều cách nâng cao chất lượng GV chứ không phải chỉ áp dụng các tiêu chuẩn cứng nhắc trên. Theo ông, điều quan trọng là làm từ gốc, tức là cần siết chặt đầu vào các trường sư phạm; tổ chức dạy, học, kiểm tra đánh giá nghiêm túc để đào tạo, cho ra trường những GV thật sự có chất lượng. Thay đổi cách thi tuyển công chức GV sao cho thực chất, công bằng, hiệu quả.
Ông Lâm cũng nhấn mạnh để khuyến khích GV tự hoàn thiện mình thì đi kèm chuẩn mới cần có chế độ lương, thưởng tương xứng với các mức độ khác nhau theo bảng đánh giá GV. "Nếu Bộ GDĐT ban hành các loại chuẩn cho GV, trong khi lương thì không đạt chuẩn để lo đủ cho đời sống của họ thì thật vô lý".
"Dĩ nhiên việc chuẩn hóa GV là yêu cầu thiết thực, tuy nhiên cũng cần phải nhìn nhận lại thực tế rằng lương GV hiện nay đa phần còn chưa đủ sống. Nhất là những người có gia đình và trên 30 tuổi, việc tự hoàn thiện năng lực trong khi còn phải lo cơm áo, gạo tiền là điều không dễ. Vì vậy cần phải có những chính sách để "chuẩn" về mặt đời sống của GV trước đã" - PGS-TS Trần Xuân Nhĩ cùng chung quan điểm.
Theo Dân Việt
Giáo viên sẽ được đánh giá theo 5 tiêu chuẩn, 15 tiêu chí Bộ GD-ĐT vừa ra thông tư ban hành quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông mới với 5 tiêu chuẩn, 15 tiêu chí có hiệu lực thi hành từ ngày 10/10/2018. Quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông áp dụng đối với giáo viên trường tiểu học, trường THCS, trường THPT,...