Chưa trường nào dạy viết chương trình, sách giáo khoa, lấy đâu ra chuyên nghiệp?
Tại Việt Nam, đến nay chưa có trường đại học nào có mã ngành đào tạo nguồn nhân lực để phát triển chương trình, biên soạn sách giáo khoa.
LTS: Vừa qua , khi nói về quá trình tham gia xây dựng chương trình giáo dục phổ thông tổng thể và phụ trách xây dựng chương trình giáo dục môn Lịch sử , Giáo sư Phạm Hồng Tung có nhắc đến chuyện “lo sợ” và “thiếu chuyên nghiệp”.
Phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi với Giáo sư Phạm Hồng Tung – Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển (Đại học Quốc gia Hà Nội) để dư luận hiểu rõ hơn những băn khoăn, trăn trở của thầy.
Phóng viên: Như chia sẻ thì trong suốt quá trình tham gia xây dựng chương trình giáo dục phổ thông từ khi bắt tay vào làm đến bây giờ thì tâm lý luôn thường trực của thầy là cảm giác lo sợ. Thầy có thể chia sẻ rõ hơn thầy đã lo sợ những điều gì?
Giáo sư Phạm Hồng Tung: Làm bất kỳ công việc gì, từ việc quét nhà, may áo cho đến tham gia phát triển chương trình giáo dục thì người có lương tâm, có trách nhiệm luôn thường trực tâm trạng lo sợ, như Khổng Tử nói “lo sợ như người đi trên lớp băng mỏng”.
Đó là tâm thế lo sợ có trách nhiệm để luôn dặn mình phải làm hết mình, luôn thận trọng, tránh làm ẩu, tránh phạm những sai lầm để lại hậu quả sau này. Lo sợ này là biểu hiện của tinh thần trách nhiệm chứ không phải sợ hãi điều gì cả.
Khi tham gia phát triển chương trình, tôi lo sợ trước tiên vì đây là cuộc đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, trong đó có đổi mới cách tiếp cận chương trình, triết lý dạy học, nếu trước đây là cách tiếp cận nội dung thì giờ đây là tiếp cận phát triển năng lực, phẩm chất.
Giáo sư Phạm Hồng Tung (ảnh: Thùy Linh)
Bởi lẽ khi nghe chuyên gia quốc tế do Bộ Giáo dục và Đào tạo mời về thì chúng tôi được biết, nước Anh họ đã làm bước chuyển này từ những năm 2001-2003 nhưng đã thất bại do chuyển nhanh, chuyển gấp, chuyển 180 độ từ nội dung sang năng lực phẩm chất. Nên giờ họ phải làm lại bằng cách kế thừa tiếp cận nội dung với dần dần chuyển sang giáo dục năng lực phẩm chất.
Thời điểm đó, vị chuyên gia ấy lấy một ví dụ mà tôi luôn khắc nhớ đó là “bạn muốn mời tôi uống một tách cafe thì mục đích là cafe phải đi vào người tôi, đó là phát triển năng lực, phẩm chất nhưng nếu không có cái tách thì tôi không uống được”, điều đó có nghĩa là năng lực, phẩm chất người học vẫn phải qua con đò chuyên chở nó đó là nội dung chứ không có một nền giáo dục trống rỗng mà lại phát triển được năng lực, phẩm chất. Do đó hai cách tiếp cận này là có tính kế thừa, tiếp nối liền mạch với nhau.
Tôi trực tiếp nghe chuyên gia quốc tế chia sẻ mà ban đầu còn khó tiếp thu nên tôi lo sợ rằng không biết bao giờ cán bộ quản lý, thầy cô ở cơ sở mới tiếp nhận và vận dụng được.
Thứ hai, tôi lo sợ vì khi đổi mới chương trình đồng thời đổi mới vai trò, chức năng, ý nghĩa của sách giáo khoa và các học liệu.
Trước đây, sách giáo khoa được coi như một tài liệu có tính chất pháp lệnh- có nghĩa là bắt buộc, nếu giáo viên hết tiết đó không dạy hết bài đó thì coi như cháy giáo án, tổ trưởng bộ môn có quyền yêu cầu chỉnh sửa nếu không sẽ bị phê bình và giáo viên không được dạy những điều ngoài sách giáo khoa. Bây giờ sách giáo khoa không còn vai trò đó nữa mà tính pháp lệnh thuộc về chương trình.
Về nguyên tắc, toàn bộ quá trình dạy-học của thầy và trò chỉ buộc phải tuân theo chương trình chứ không phải tuân theo sách giáo khoa, mà sách giáo khoa giờ chỉ là một học liệu trong số các học liệu cơ bản tối thiểu.
Thế nhưng mà thầy cô của chúng ta đã theo quán tính hàng chục năm nay là lệ thuộc vào sách giáo khoa, ra câu hỏi thi cũng dựa vào sách giáo khoa, thế mà bây giờ sách giáo khoa chỉ là trong các học liệu, thì tôi lo sợ đồng nghiệp của tôi – tức thầy cô ở các trường có nhận thức đúng không?
Thực tế, tôi tham gia tập huấn nhiều nơi thấy giáo viên đứng lớp rất ít khi quan tâm đến chương trình mà cứ chờ sách giáo khoa, họ vẫn chờ sách giáo khoa như trước đây.
Thậm chí, ngay cả khi giáo viên nhận thức được bước chuyển đó thì tôi lo sợ không biết thầy cô có biết cách đọc chương trình hay không, vì họ đều là những nhà chuyên môn nên điều họ chú ý và đọc đầu tiên là cột bên trái – đó là cột chuyên môn nhưng trong chương trình hiện nay cột đó khá sơ giản, chỉ là những gợi ý về nội dung, còn yêu cầu cần đạt – tức cột bên phải mới là quan trọng, thì lâu nay, theo quán tính giáo viên quên bẵng đi, không quan tâm và cứ chờ sách giáo khoa.
Thứ ba là, bất kỳ cuộc đổi mới nào cũng cần điều kiện để thực hiện thành công từ đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất… Ấy vậy mà giờ đây hết covid-19 lại đến bão lũ trôi hết sách vở, bàn ghế của thầy trò. Vậy lấy gì để đổi mới đây? Tôi đau xót lắm. Đáng ra giáo viên phải được tạo điều kiện để muốn tìm hiểu cái gì về đổi mới là có công cụ hỗ trợ cái đó thì giờ đây thầy cô ở nhiều tỉnh miền Trung còn đang phải đi cạo bùn, lau bàn ghế, phơi sách vở…
Thứ tư là, đi kèm với đổi mới cách tiếp cận, đổi mới chương trình, đổi mới sách giáo khoa thì tiếp theo phải là đổi mới cách đánh giá, trong đó có thi cử, tức là cách đánh giá của chúng ta phải thay đổi, ấy vậy mà đến nay chưa có ai cảnh báo về điều này một cách đầy đủ, nên tôi lo sợ rằng sắp tới thầy cô sẽ thực hiện thế nào?
Trước đây, dù học giỏi hay học kém thì mỗi khi đầu giờ học sinh đều run sợ khi thầy cô kiểm tra bài cũ, mỗi kỳ thi đều đầy áp lực vì cách đánh giá tiêu cực, tức là thầy cô luôn xoáy vào điểm mà họ giả định học trò chưa học, còn yếu, sai lầm để ra đề thi. Dù được điểm bao nhiêu cũng cảm giác như bị trừng phạt.
Giờ khi đổi mới thì phải đổi sang cách đánh giá tích cực phù hợp tiếp cận năng lực, phẩm chất để làm sao mỗi lần được đánh giá thì học trò, từ học sinh tiểu học đến nghiên cứu sinh tiến sĩ đều cảm thấy tự tin hơn vì được khuyến khích, được đánh giá công bằng. Nhưng khi giáo viên không được phê bình học trò trước lớp, giáo viên tiểu học không được cho điểm…. đó là cách đánh giá tích cực, nhưng thầy cô không được dạy để đổi mới kỹ thuật đó và cha mẹ có hiểu được điều đó không?
Thậm chí giáo viên còn loay hoay không biết khi không cho điểm thì làm sao đánh giá được học sinh, không phê bình thì làm sao thể hiện được sự nghiêm khắc của người thầy, để các em tiến bộ…
Do đó chúng ta cần phải có bước chuyển trong cách đánh giá, từ đó mới xây dựng được câu hỏi trắc nghiệm trong các kỳ thi chuẩn, chứ nếu không nền giáo dục cứ mãi loay hoay với việc kỳ thi năm nay điểm Sử thấp thì sang năm lại giảm tải, năm sau điểm Toán cao thì năm sau nữa lại tăng tải…
Một chương trình khi ban hành là đã hoàn thiện, giống như một cơ thể hoàn chỉnh, ấy vậy hàng năm nó được giao cho chuyên viên của Bộ, Sở, Phòng nghiên cứu làm công việc giảm tải, tăng tải. Cho dù các bạn ấy thực sự tận tâm và nghiêm túc thì các bạn ấy cũng khó có thể làm tốt được việc này, vì họ có phải là nhà phát triển chương trình chuyên nghiệp đâu!
Chính điều này đòi hỏi chúng ta phải có tổ chức chuyên nghiệp đảm trách việc phát triển chương trình thì họ sẽ nhìn ra để từ đó sẽ cắt bớt hay tăng thêm nhưng không gây ra khủng hoảng có tính hệ thống.
Ngoài ra, trong chương trình tổng thể có một phần rất lớn dành thời lượng cho giáo dục địa phương mà chương trình, nội dung, học liệu do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức, xây dựng.
Nhìn từ chương trình tổng thể được Ngân hàng thế giới cho vay tiền, tập trung nhiều chuyên gia đầu ngành tâm huyết, ấy vậy mà còn vật vã 18 tháng mới xong, vậy tôi sợ không biết các tỉnh sẽ làm thế nào để phát triển được chương trình cho 20% tổng thời lượng giáo dục dành cho giáo dục địa phương.
Hay lại làm như trước đây: vá víu tí Sử, tí Địa, tí Kinh tế, tí Du lịch… để trở thành nội dung giáo dục địa phương. Điều này không đúng với phát triển năng lực, phẩm chất của con em địa phương trong bối cảnh kinh tế thị trường, khi mỗi địa phương phải là một điểm đến, một địa bàn kinh tế, văn hóa có thế mạnh riêng của mình.
Video đang HOT
Đó là những lo ngại của tôi từ việc nếu không hiểu đúng chương trình, không đọc đúng chương trình, vai trò của sách giáo khoa, mối quan hệ giữa sách giáo khoa với các học liệu khác, triết lý đánh giá chuyển từ “trừng phạt” sang “khuyến khích, khen ngợi”, giáo dục địa phương thế nào thì công cuộc đổi mới sẽ còn vô vàn khó khăn.
Xin ông cho biết, các thành viên trong ban phát triển chương trình giáo dục phổ thông 2018 có phải là những nhà phát triển chương trình chuyên nghiệp?
Giáo sư Phạm Hồng Tung: Trước tiên phải nói rằng, tôi không thay mặt cho Ban phát triển chương trình, tôi cũng không thay mặt cho một cơ quan, tổ chức nào mà tôi đang chia sẻ nhận thức của cá nhân tôi.
Qua quá trình tham gia phát triển chương trình giáo dục phổ thông 18 tháng vừa qua thì tôi phát hiện ra sự khác nhau trong cách tổ chức phát triển chương trình của Việt Nam so với các nước có điều kiện giáo dục tiên tiến là: họ có cơ quan, tổ chức chuyên nghiệp đảm trách công việc phát triển chương trình giáo dục phổ thông, đại học, sau đại học. Nhân viên ở đó được trả lương và xây dựng, phát triển chương trình cả đời, nên họ sẽ luôn quan trắc được chương trình hiện hành có theo kịp cuộc sống hay không, có khuyết thiếu điều gì, lạc hậu cái gì, rồi theo dõi chương trình ở nước ngoài có gì hay thì họ điều chỉnh logic, khoa học chứ không chắp vá.
Còn tại Việt Nam, đến nay chưa có trường đại học nào có mã ngành đào tạo nguồn nhân lực để phát triển chương trình, biên soạn sách giáo khoa và cũng chưa có một tổ chức nào chịu trách nhiệm với việc đó. Nếu có thì họ đã đứng ra làm chứ không phải chúng tôi.
Vì chúng ta chưa có nên tôi mong muốn Bộ Giáo dục và Đào tạo nên sớm thực hiện đào tạo và tổ chức, còn khi đã có rồi thì Bộ giao về cho một đơn vị nào đó quản lý thì đó là việc của Bộ.
Bởi lẽ khi chuyên nghiệp thì họ không những thành thạo về chuyên sâu phát triển chương trình mà họ còn am tường những trường phái lý thuyết khác nhau nào về khoa học chương trình, phương pháp khác nhau về phát triển chương trình, phương pháp khác nhau về đánh giá, phương pháp khác nhau về quản trị…
Tất cả những điều đó phục vụ cho phát triển chương trình sau đó mới đến tri thức, hiểu biết chuyên ngành cụ thể như Sử, Toán, Lý…- kiến thức chuyên ngành là chỉ là kiến thức thứ yếu của người chuyên nghiệp phát triển chương trình.
Đem tiêu chuẩn của thế giới mà thầy vừa nêu so với cách mà thầy vừa tham gia trong ban phát triển chương trình thì thầy có điều gì khác biệt?
Giáo sư Phạm Hồng Tung: Trước tiên phải khẳng định, qua nhiều công đoạn từ lấy ý kiến nhân dân, được hội đồng thẩm định đánh giá… thì chương trình giáo dục phổ thông của chúng ta đã xây dựng thành công, và đã được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ký quyết định ban hành.
Để xây dựng chương trình đó thì có 18 người xây dựng chương trình tổng thể, 56 người tham gia ban soạn thảo chương trình môn học. Tuyệt đại đa số họ đều là những nhà chuyên môn giỏi, tâm huyết, đứng lớp vài chục năm thậm chí có người đã hàng chục năm tham gia phát triển chương trình, có kinh nghiệm xây dựng chương trình giáo dục phổ thông, đại học, sau đại học, và có cả những người từng tham gia phát triển chương trình ở nước ngoài.
Nhưng kinh nghiệm không thay thế được chuyên nghiệp.
Phải thừa nhận là, tất cả chúng tôi không loại trừ ai đều không được đào tạo chuyên môn là phát triển chương trình giáo dục mà chúng tôi được đào tạo ở những chuyên môn khác nhau: Sử, Ngôn ngữ, Toán, Hóa…nên chúng tôi đều không phải là những nhà phát triển chương trình giáo dục chuyên nghiệp.
Vì không chuyên nghiệp như vậy nên khi tham gia phát triển chương trình, với tinh thần trách nhiệm và cầu thị cao, chúng tôi phải làm rất nhiều việc để tự đào tạo mình.
Phải nói rằng, nhiệm kỳ trước Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận và Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển đã tổ chức cho các chuyên gia tham gia phát triển chương trình phổ thông được đi học, đi đào tạo, tham khảo kinh nghiệm của hơn 10 nước. Khi đó, bằng kinh nghiệm của mình chúng tôi đã được cọ xát và trình độ nâng lên rất nhiều.
Ngoài ra, Bộ cũng tổ chức cho chúng tôi đi thực tế và trong quá trình thực hiện thấy thiếu hụt chỗ nào thì chúng tôi phải kết nối với thầy cô từ trường chuyên, trường thường, trường miền xuôi, trường miền núi…
Ví dụ lúc đầu chúng tôi dự kiến tất cả các môn học ở bậc trung học phổ thông đều là môn tự chọn trừ Ngoại ngữ, Giáo dục quốc phòng – an ninh, Giáo dục thể chất.
Lúc đó, lo ngại của Ban phát triển chương trình là như vậy thì các trường có sắp xếp được thời khóa biểu không, do đó chúng tôi đã liên hệ với các thầy cô, cán bộ quản lý nhờ giả định các môn còn lại là tự chọn hết để lấy ý kiến học sinh, thấy khả thi thì mới đề xuất.
Nhưng sau đó một số chuyên gia giáo dục cho rằng có thể rủi ro vì thực hiện ở thành phố lớn thì ổn nhưng các tỉnh vùng sâu xa thì chưa phù hợp nên chúng tôi lại phải để một số môn là bắt buộc còn các môn khác là “tự chọn bắt buộc” tức là nếu học trò chọn học các môn thiên về tự nhiên thì vẫn phải chọn thêm môn xã hội để đảm bảo phát triển toàn diện.
Hay chuyện có nên áp dụng đại trà cho học sinh tiểu học học 2 buổi/ngày.
Khi thừa nhận sự không chuyên nghiệp, tôi tuyệt đối không hề chê bai ai đó trong Ban phát triển chương trình là thiếu kinh nghiệm hay yếu kém, mà điều tôi mong muốn là những người kế tục mình phải những nhà phát triển chương trình thực sự chuyên nghiệp, họ luôn thường trực ở một cơ quan chuyên nghiệp để làm công việc đó chứ không phải tổ chức kiểu “dự án”, tức là ký hợp đồng với các chuyên gia, rồi 18 tháng xong chương trình thì giải tán và sau đó không biết ai ở đâu, hết cả quyền chịu trách nhiệm về chương trình.
Ví như giờ chương trình cần giảm tải, cần tham khảo ý kiến các thành viên mà có người đã ra nước ngoài thì sao, bởi hết hợp đồng thì họ không còn trách nhiệm nữa, không ở Việt Nam chẳng hạn. Điều đó cho thấy, đây là tổ chức thiếu chuyên nghiệp.
Hơn nữa, năm học vừa qua vì dịch Covid-19 nên chuyển đổi từ dạy trực tiếp sang dạy online, nhưng đến nay chưa ai tổng kết phương pháp giảng dạy này nên chưa hề có chỉ dẫn, nguyên tắc nào chính vì vậy thầy cô vẫn tự giảng dạy qua phần mềm mà thôi.
Trong khi dạy online là xu hướng, nhưng chương trình vừa rồi xây dựng không tính đến tình huống này. Chính vì vậy tôi muốn nhắc lại là cần phải có cơ quan quan làm chương trình chuyên nghiệp thì họ sẽ tính toán được điều này.
Do đó tôi cho rằng, sau khi Bộ đánh giá được thành công của chương trình tổng thể, chương trình môn học thì sớm mở mã ngành đào tạo nhân lực phát triển chương trình. Lúc đó đổi mới chẳng cần hô hào mà tự khắc sẽ diễn ra theo quy luật của giáo dục trong bối cảnh kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới.
Hơn nữa, việc biên soạn sách giáo khoa ở nước ngoài cũng là công việc của những người cả đời chỉ viết sách giáo khoa và được trả lương để làm công việc này chứ không phải đang làm việc khác rồi nhận hợp đồng của Nhà xuất bản A hay B rồi tham gia biên soạn như ở ta hiện nay.
Cuối cùng, tôi muốn nói rằng, chúng ta cần có tổ chức chuyên nghiệp và nguồn nhân lực được đào tạo chuyên nghiệp để làm chương trình và biên soạn sách giáo khoa, khi đó không cần nguồn kinh phí rất lớn nữa vì người chuyên nghiệp đó họ biết cách họ biên soạn, tổ chức tập huấn, liên lạc với giáo viên để giáo viên tiếp nhận nhanh nhất, nhìn thấy chương trình là biết chương trình, nhìn thấy học liệu này là lắp ở chỗ nào, sử dụng chỗ nào. Và chỉ khi đó học sinh thân yêu của chúng ta mới là những học trò tích cực.
Trân trọng cảm ơn Giáo sư Phạm Hồng Tung về cuộc trao đổi.
Giáo viên "nhầm lẫn" chương trình với sách giáo khoa vì đâu?
Nếu nói như vậy thì một số chuyên gia và các nhà quản lý giáo dục liệu có đang "chuyền" quá bóng trách nhiệm sang các thầy cô giáo hay không khi triển khai?
Năm học 2020-2021 chính thức áp dụng chương trình và sách giáo khoa mới theo tinh thần "đổi mới căn bản và toàn diện" nền giáo dục.
Tuy nhiên, chỉ sau khoảng hơn 1 tháng triển khai, nhiều thầy cô giáo cho rằng chương trình lớp 1 quá nặng, học sinh theo không kịp.
Ngay lập tức các chuyên gia xây dựng chương trình giáo dục và biên soạn sách giáo khoa cùng những người có trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã lên tiếng cho rằng chương trình không nặng.
Theo họ nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này là do các thầy cô giáo không hiểu, không nắm vững chương trình giáo dục phổ thông mới, đang có sự "nhầm lẫn", không phân biệt giữa chương trình với sách giáo khoa nói chung...Thực tế có phải như vậy không?
Còn quan điểm sách mới nặng hay nhẹ thì cũng tùy thuộc vào giáo viên quan tâm đến đối tượng học sinh của mình thế nào? Khả năng tiếp nhận của các em cũng như cách truyền tải của giáo viên trên lớp. Ảnh minh họa: Tùng Dương.
Trao đổi về vấn đề này với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, nhà giáo N.N.A - Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn một trường tiểu học tại Hà Nội cho biết:
"Có thể hiểu với chương trình cũ trước kia thì những ngữ liệu ở trong sách đã được nghiên cứu, dạy qua nhiều năm và ở mức độ đơn giản.
Những ngữ liệu cũ này bị thiếu phần khơi dậy kỹ năng để cho học sinh được tiếp xúc nhiều hơn về ngôn ngữ, vậy nên đáng ra lượng từ ngữ, ngữ liệu cũ này cần phải nhiều hơn.
Nên với sách giáo khoa cũ chúng tôi phải soạn tăng cường thêm tư liệu bên ngoài sách với mục đích giúp cho học sinh được cọ xát, thấy được từ ngữ xuất hiện nhiều lần.
Nhưng với sách giáo khoa mới hiện nay chúng tôi không phải soạn thêm ngữ liệu nữa vì từ ngữ trong sách rất nhiều và phong phú, hơn nữa lại còn có nhiều bộ sách để tham khảo mà không phải tự mày mò thêm ngữ liệu.
Mỗi bộ sách giáo khoa có lộ trình học và thứ tự sắp xếp âm vần khác nhau, vậy nên khi tham khảo chúng tôi cũng phải tính toán đến việc học sinh đã học đến vần này hay chưa để đưa ngữ liệu vào cho phù hợp".
Cô A cho biết: "Xu hướng các bộ sách giáo khoa mới là tăng cường khả năng cho trẻ biết đọc nhanh hơn, vậy nên có một số bộ sách mới đã rút ngắn thời gian học vần.
Ví dụ, trước kia học sinh phải học vần lên đến tuần thứ 26 - 27, nhưng hiện nay chỉ vào khoảng tuần thứ 22 là phải xong phần đó, chính vì thời gian bị rút ngắn nên đã đẩy phần học vần nhanh hơn cùng với số lượng vần nhiều hơn trong một tiết học.
Với sách cũ ít vần thì đương nhiên giáo viên dạy cũng nhàn hơn, thoải mái thời gian nên có thể luyện đi luyện lại vì chỉ có 2 vần trong một bài. Nhưng thực tế hiện nay có bài tới 3 vần, và khi đã có thêm vần thì đương nhiên phần đọc và phần ngữ liệu từ, tiếng sẽ nhiều hơn.
Có thể vì lý do đó mà không ít giáo viên kêu chương trình, sách giáo khoa mới nặng hơn sách cũ. Một phần vì các giáo viên đã quá nhiều năm dạy sách giáo khoa cũ ít vần, đã quá quen với nếp cũ rồi thì đương nhiên sẽ nhẹ nhàng hơn. Vậy nếu nói nặng hơn thì cũng đúng.
Còn nặng hay nhẹ thì cũng tùy thuộc vào giáo viên quan tâm đến đối tượng học sinh của mình thế nào? Khả năng tiếp nhận của các em cũng như cách truyền tải của giáo viên trên lớp.
Cũng tùy thuộc vào yêu cầu của giáo viên với phụ hynh học sinh khi về nhà, ví dụ chỉ yêu cầu các con đọc trơn khác với đánh vần. Ở những tuần đầu chỉ yêu cầu đánh vần thôi vì trẻ mới tiếp cận với ngôn ngữ, mặt chữ.
Nhưng đến tuần sau trẻ con đánh vần quen rồi, quen với nhịp học và nề nếp thì việc đọc cũng sẽ dễ dàng hơn, vậy nên giáo viên cần phải tùy vào thực tế để đưa ra yêu cầu. Nên nhớ là đánh vần và đọc trơn tru khác nhau hoàn toàn".
Việc thay đổi này cần phải có thời gian để các giáo viên làm quen và bắt kịp với phương pháp dạy mới phát triển năng lực học sinh thay vì phương pháp cũ. Sự thay đổi này không thể trong 1-2 tháng được. Ảnh minh họa: Tùng Dương.
Giáo viên chưa thông hiểu chương trình?
Cô A cho rằng: "Tư tưởng từ người làm sách muốn truyền đạt đến cho giáo viên có đầy đủ hay không thì vấn đề đó liên quan đến tập huấn, truyền thông.
Thử hỏi các nhà làm sách đã tập huấn, giải thích đầy đủ, chi tiết... đến các giáo viên hay chưa? Việc tập huấn sách giáo khoa mới đã đủ cho giáo viên hiểu và thấm nhuần đầy đủ về chương trình mới không?
Hay các nhà làm sách mới chỉ dừng lại ở mức độ thông báo rằng có thay đổi sách giáo khoa mới, chương trình như vậy và đã được Bộ thông qua, nhưng cụ thể vấn đề các bộ sách đó được triển khai như thế nào...thì liệu đã có được bao nhiêu % giáo viên lĩnh hội?
Vậy nên vấn đề tập huấn, đào tạo, truyền thông đến giáo viên theo tôi đang có vấn đề. Muốn làm bất cứ việc gì mà lại là vấn đề mới thì người thực hiện trực tiếp phải được hướng dẫn, phải thông hiểu.
Đã là quan điểm thì phải được truyền tải lại cho các giáo viên đầy đủ để họ hiểu được đúng và rõ quan điểm đấy".
Cũng theo cô A: "Đợt tập huấn sách giáo khoa mới vừa qua nhanh quá bởi mới tập huấn đào tạo giáo viên được một thời gian ngắn thì lại bị dịch Covid-19 làm gián đoạn.
Khi giáo viên lĩnh hội tư tưởng qua tập huấn và cũng có nhiều bộ sách, mỗi bộ sách cũng sẽ có tư tưởng, cách tiếp cận khác nhau.
Tất nhiên khung chương trình là một chuyện, nhưng khung chương trình đó là vĩ mô, còn khi đã triển khai đến từng phần, từng bước thì lại phải là vi mô, lúc này cần chi tiết tỉ mỉ, rõ ràng.
Vậy nên cần phải làm rõ việc đào tạo tập huấn đã đủ đến mức độ chi tiết để các giáo viên nắm bắt đầy đủ tinh thần sách giáo khoa mới hay chưa? Đó mới là điều cốt lõi vấn đề.
Theo tôi là đợt tập huấn vừa qua ngắn và chưa truyền đạt đầy đủ ý tưởng, trong khi giáo viên chính là người lĩnh hội quan điểm để triển khai chương trình sách giáo khoa mới này.
Chính vì vậy một số chuyên gia và các nhà quản lý không thể "chuyền" quá bóng trách nhiệm sang các thầy cô giáo được vì bản thân họ chưa được tập huấn kỹ".
Cô A. chia sẻ: "Hiện nay có thay đổi nhưng chỉ là khung chương trình, còn người viết sách sẽ tiếp cận trên nhiều quan điểm và mọi con đường đều có điểm cuối như nhau.
Cần bám sát khung chương trình theo quy định, và dù có triển khai theo cách nào, học theo kiểu nào thì cuối cùng cũng đến được cái đích cuối là khung đó.
Bản thân giáo viên như chúng tôi là sản phẩm của các chương trình trước và đó là chương trình tiếp cận theo nội dung nên bao giờ nội dung cũng có định hướng rất kỹ.
Nhưng chương trình hiện nay là tiếp cận theo phát triển năng lực, người ta chỉ tính toán đến vấn đề năng lực như nghe, nói, đọc, viết của học sinh, chứ họ không quá quan trọng về cụ thể bài đó là cái gì, tên bài ra sao...
Có thể nói trước kia giáo viên đã quen với việc được hướng dẫn cụ thể, tiết học dạy những gì... rõ ràng rồi, nhưng giờ đây thay vì việc hướng dẫn cụ thể thì mọi chuyện lại để mở.
Giáo viên được phép tự lựa chọn ngữ liệu và đôi khi bản thân giáo viên cũng chưa quen với phương pháp dạy mở này. Được cho quyền tự chủ...nhưng có không ít giáo viên chưa dám thoát ra và cũng có thể năng lực chưa theo kịp vấn đề đó.
Theo tôi việc này cần phải có thời gian để các giáo viên làm quen và bắt kịp với phương pháp dạy mới phát triển năng lực học sinh thay vì phương pháp cũ. Sự thay đổi này không thể trong 1-2 tháng được.
Nhiều năm trước theo một bộ sách giáo khoa và chương trình cũ, vậy mà năm nay giáo viên được quyền chủ động, được quyền chọn lựa những nội dung kiến thức mà giáo viên định dạy thì đó là một thay đổi rất lớn nên cần có thời gian".
Cô A. nhấn mạnh: "Cái gì mới làm cũng sẽ khó khăn và sẽ có nhiều luồng ý kiến từ mọi phía. Khi nhà trường chúng tôi chọn lựa sách giáo khoa thì cũng đã tính toán mọi vấn đề nhưng cũng không thể trọn vẹn được.
Với góc độ quan sát của giáo viên thì cũng chỉ dừng lại ở mức độ nhất định, còn lại trong quá trình triển khai phải phụ thuộc vào học sinh của mình, rồi chỉnh sửa.
Phải linh hoạt chương trình, ngữ liệu để làm sao học sinh tiếp cận kiến thức một cách hợp lý nhất, đảm bảo được vấn đề mục tiêu chung của chương trình.
Với bất cứ một bộ sách giáo khoa nào đi nữa thì mục tiêu cuối cùng là cuối mỗi lớp học, cấp học khi thực hiện các bộ sách khác nhau cũng cần đạt chuẩn, đạt mục tiêu quy định".
Sách giáo khoa hay chương trình, cái nào là tài liệu có tính pháp lệnh?
Cô A. nêu quan điểm: Nếu nói sách giáo khoa không là pháp lệnh thì chưa hẳn là đúng, theo tôi đó là cách mọi người hiểu chưa kỹ.
Trước kia coi sách giáo khoa là pháp lệnh, có nghĩa học sinh ở bất cứ đâu trên toàn quốc trong cùng cấp học, cùng tuần, cùng giờ sẽ là bài học giống nhau, bởi chung một bộ sách giáo khoa thì đương nhiên sẽ giống nhau. Đó gọi là pháp lệnh và tất cả đều phải thực hiện.
Nhưng hiện nay coi sách giáo khoa là tài liệu tham khảo bởi có thể vào ngày này, tuần này ở địa phương này học sinh mới học đến bài A, nhưng ở trường khác lại học bài B, lý do là có nhiều bộ sách và cách bố trí các bài theo tiến độ học khác nhau.
Cùng một chương trình nhưng có nhiều bộ sách giáo khoa thì có nghĩa sách giáo khoa không còn là pháp lệnh nữa mà trở thành tài liệu tham khảo, giáo viên dựa vào đó để xây dựng chương trình khung.
Nếu người nói chỉ cần cắt bớt câu sách giáo khoa không phải là pháp lệnh thì tự nhiên mọi việc trở nên nặng nề và người nghe có thể hiểu sai vấn đề".
Nhà giáo ưu tú Nguyễn Phú Cường - Chủ tịch hội đồng Hệ thống Giáo dục Lômônôxôp Hà Nội, nêu quan điểm:
"Muốn đổi mới giáo dục thành công thì trước hết phải đào tạo giáo viên thật tốt để họ thích ứng được với chương trình đổi mới, nắm chắc, hiểu và dạy được chương trình đổi mới đó. Cái gốc chính là ở chỗ đó chứ không phải chỉ là đổi mới mấy quyển sách giáo khoa.
Giáo viên nên bám vào sườn của sách giáo khoa để dạy chứ không phải phụ thuộc hoàn toàn vào sách, có thể tham khảo tìm ngữ liệu ở nhiều nguồn để phục vụ giảng dạy.
Thực tế hiện nay đang có vấn đề khập khiễng, chương trình muốn đổi mới nhưng có nhiều giáo viên lại không đáp ứng được về năng lực, các nơi đào tạo giáo viên không theo kịp. Việc dạy theo nhiều đối tượng khác nhau như vậy thì phải dạy kiểu khác chứ không thể cào bằng.
Nhưng còn với một bộ phận giáo viên có năng lực yếu thì sách giáo khoa lại là cứu cánh của họ, những người này chỉ biết dạy theo sách".
Thầy Cường nói: "Gốc ở đây là vấn đề đào tạo từ các trường sư phạm, các trường này phải đổi mới rất nhiều từ cách dạy, cách tiếp cận và cách đào tạo.
Trong khi hiện nay có nhiều trường sôi sục đổi mới, thông tư chỉ thị mới khiến cho nhiều trường thay đổi, thì ngược lại nơi đào tạo giáo viên chỉ mải mê với kiến thức chuyên sâu, nghiên cứu gì đó...rất sách vở.
Đào tạo cái gốc mà sơ sài, quan liêu không chịu đổi mới như vậy thì làm sao mà đáp ứng được yêu cầu đổi mới nguồn nhân lực. Đó mới là gốc của vấn đề đổi mới giáo dục hiện nay".
Chưa nhận được văn bản, giáo viên chỗ tôi vẫn dạy theo Tiếng Việt 1 Cánh diều Không nên trao quyền cho thầy cô thay đổi ngữ liệu, sẽ tạo cơ hội để sách giáo khoa biên soạn và thẩm định ẩu (họ sẽ có cớ đá quả bóng trách nhiệm qua giáo viên). Ngay tại thời điểm này 13/11, học sinh các trường tiểu học trong cả nước đã bước sang tuần học thứ 10 và còn khoảng 5...











Tin đang nóng
Tin mới nhất

Còn nhiều băn khoăn về chứng nhận giỏi cấp tỉnh với học sinh điểm IELTS cao

Việc thực hiện chương trình, SGK mới còn nhiều khó khăn

Cấp phép tổ chức thi chứng chỉ HSK trở lại

Banner tìm hiểu ngày 22/12 của Trường ĐH Tôn Đức Thắng in hình lính Mỹ

Nhiều tỉnh cho học sinh nghỉ Tết hơn 10 ngày, Hà Nội lý giải nghỉ 8 ngày

Trường ĐH Kiên Giang dự kiến tuyển hơn 1.600 chỉ tiêu năm 2023

Trường Đại học Hồng Đức nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên ngành giáo dục mầm non

Học sinh Hà Giang nghỉ Tết Quý Mão 12 ngày, từ 27 tháng Chạp

Nhiều tiết dạy sáng tạo tại hội thi giáo viên dạy giỏi Hà Nội

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân công bố Đề án tuyển sinh đại học năm 2023

Tuyển sinh 2023: Đại học Kinh tế Quốc dân công bố đề án tuyển sinh

Cần cẩn trọng lựa chọn nhân sự, ra đề thi
Có thể bạn quan tâm

Hôm nay nấu gì: Tháng 4 chưa oi mà mâm cơm đã thơm mùi nắng gió
Ẩm thực
17:08:29 08/04/2025
Quỳnh Lương lên tiếng tin bị chồng bỏ, phải về nhà ngoại gấp sau 3 tuần làm đám hỏi
Sao việt
17:06:28 08/04/2025
Cuộc sống của người phụ nữ gần 10 năm nay không tiêu tiền
Lạ vui
17:03:47 08/04/2025
Báo chí Hàn Quốc chỉ trích Garo Sero: Bịa đặt, xâm phạm đời tư nghệ sĩ
Sao châu á
17:03:25 08/04/2025
Quyền lợi và rủi ro của thị thực du học giữa làn sóng siết chặt nhập cư thời Tổng thống Trump
Thế giới
17:03:05 08/04/2025
Andre Onana: 'MU đang ngày một tốt lên'
Sao thể thao
16:59:33 08/04/2025
'Địa đạo' của Bùi Thạc Chuyên cán mốc 81 tỷ, vượt mặt cả bom tấn Hollywood
Hậu trường phim
15:23:19 08/04/2025
Hồ Ngọc Hà gia nhập bộ ba quyền lực ngồi ghế nóng của VTV
Tv show
15:20:52 08/04/2025
Cha tôi, người ở lại - Tập 23: Nguyên bị trầm cảm nhưng giấu cả nhà
Phim việt
15:14:31 08/04/2025
Muôn kiểu biến hóa đầy mê hoặc với áo crochet
Thời trang
15:12:35 08/04/2025