Chủ nhân giải Nobel Vật lý: Tôi không hối tiếc bất cứ điều gì
Giáo sư người Mỹ nhận giải Nobel Vật lý danh giá năm 1996 Douglas D. Osheroff cho biết điều lớn nhất giải Nobel mang lại cho ông là cơ hội được đi nhiều nơi và gặp gỡ mọi người ở những nền văn hóa khác nhau.
Lần đầu tiên đến Việt Nam nhân tham gia chuỗi sự kiện trong “Cầu nối – cuộc đối thoại hướng đến văn hoá hoà bình” cuối tuần qua, giáo sư người Mỹ từng nhận giải Nobel Vật lý danh giá năm 1996 Douglas D. Osheroff đã chia sẻ với Sài Gòn Tiếp Thị, điều lớn nhất giải Nobel mang lại cho ông là cơ hội được đi nhiều nơi và gặp gỡ mọi người ở những nền văn hoá khác nhau.
Thưa ông, chủ đề ông nói chuyện tại Việt Nam lần này là “Khoa học thay đổi cuộc sống chúng ta”, vậy khoa học đã thay đổi cuộc đời ông thế nào?
Rõ ràng là khoa học đã thay đổi cuộc đời tôi, tôi làm rất nhiều nghiên cứu về khoa học và luôn luôn hứng thú với chúng. Mặc dù việc phát hiện ra heli 3 không ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của tôi, nhưng khi tôi biết mình được giải thưởng Nobel thì thật là, tôi đã đi lại suốt trong phòng và nói liên hồi. Và sau đó, tôi bay đến 150.000 dặm mỗi năm và có 1,9 triệu chuyến bay đến thời điểm này. Tôi có thể làm những việc này (thuyết giảng, giao lưu) ở Mỹ, nhưng tôi thích được gặp gỡ nhiều người ở các nền văn hoá khác nhau và biết cách họ suy nghĩ thế nào về mọi điều. Rất nhiều niềm vui và nhiều việc để làm.
Giáo sư Douglas D. Osheroff.
Vậy ông mong chờ gì trong chuyến thăm Việt Nam lần này?
Tôi chưa biết, tôi rất mong chờ những câu hỏi từ phía các bạn.
Ông có cho rằng, sự nghiệp của mình có “bắt rễ” từ khi ông còn nhỏ?
Chắc chắn là như vậy. Cha tôi là người cố gắng khiến cho tôi hứng thú với khoa học. Tôi là một trong hai người con trai (trong số năm anh chị em trong gia đình) được cha khuyến khích nhiều về khoa học. Có lần tôi đã gặp phải một tai nạn khi dòng điện 600V chạy qua người, cơ thể co giật đến năm lần, nhưng khi tỉnh dậy, tôi thấy mình nằm ở phía kia trong phòng mà không sao.
Tôi còn nghe nhiều tai nạn khác nữa, ông thật là may mắn.
Đúng là tôi rất may!
Video đang HOT
Ông có bao giờ thấy mệt mỏi hay bị nhụt chí?
Ôi, mọi người đôi lúc đều cảm thấy nản lòng, nhưng nếu không thế thì bạn không phải người bình thường.
Và ông đã vượt qua thế nào?
Trong khoa học mà có cái gì đó sai thì thực sự là thách thức và tôi luôn nghĩ, mình sẽ vượt qua nó. Cũng giống như trong cuộc sống, luôn có nhiều thách thức. Và càng có nhiều thì chúng ta càng phải chinh phục.
Ông có thể chia sẻ về gia đình mình?
Vợ tôi là người Đài Loan. Trước đây, vì quá say mê khoa học trong nhiều năm, nên chúng tôi không nghĩ đến con cái, và sau đó thì quen dần với việc không có con. Khi là giáo sư ở trường đại học, thì bạn có thể cảm thấy không cần có con vì bạn có ảnh hưởng đến rất nhiều bạn trẻ. Nhưng khi về già, thì bạn cũng hơi lo lắng “ai sẽ chăm sóc mình những ngày xế chiều?”, đôi khi cũng hơi lo sợ. Nhưng tôi không hối tiếc bất cứ điều gì đã làm trong cuộc đời mình. Tôi cũng nói với các bạn sinh viên trẻ là tôi sẽ tác động đến các bạn, giúp mọi người có niềm đam mê khoa học. Lần này đến Việt Nam, tôi cũng muốn khuyến khích các em sinh viên có thêm tình yêu với khoa học.
Theo ông, cách tốt nhất để Việt Nam phát triển khoa học là đưa sinh viên đến các nước tiên tiến khác học. Nhưng nếu họ không quay về khi có điều kiện tốt hơn, thì phải làm sao?
Đó là một việc cần phải có sự khôn khéo. Nhưng điều đầu tiên bạn cần nhận ra là, nếu các sinh viên Việt Nam tới Đại học Stanford (Mỹ) để làm các thí nghiệm, thì sau đó, họ sẽ tự hỏi: tôi có thể trở thành một nhà khoa học hữu ích khi trở về không? Nếu câu trả lời là “không” thì họ sẽ phải bắt tay vào tìm kiếm công việc ở Mỹ. Đó là bản năng của con người. Vì thế, tôi nghĩ nếu Việt Nam muốn gửi một số sinh viên đi, thì nên có một số chương trình cụ thể cho phép họ tiếp tục các nghiên cứu của mình khi trở về.
Ý ông là Việt Nam cần có các thiết bị hiện đại?
Đó là một vấn đề rất phức tạp, bạn cần phải nhìn lại xem cái gì bạn có và cái gì thích hợp. Tôi đã chứng kiến đại học ở Brazil gần đây đã nhập thiết bị về mà không phải mua. Tại đại học Stanford có một số nhà nghiên cứu có thiết bị mà không cần nữa, các thiết bị đó có thể được tặng cho các trường đại học ở các nước đang phát triển.
Nói chung, ông sẽ nói gì về tình trạng chảy máu chất xám ở các nước đang phát triển như Việt Nam?
Bạn có thể đào tạo nên những nhà khoa học sáng giá, nhưng nếu không có các cơ hội cho mình, thì tại sao họ ở lại Việt Nam?
Theo Việt Anh
SGTT
Chủ nhân giải Nobel Vật lý giao lưu với sinh viên Hà Nội
Đang có chuyến thăm và làm việc tại VN theo chương trình của Quỹ Hòa Bình Quốc tế, GS Douglas D.Osheroff, người từng đoạt giải Nobel vật lý có buổi giao lưu cùng hàng trăm sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội vào chiều 14/12.
Tại buổi giao lưu, ông chia sẻ những kinh nghiệm nghiên cứu khoa học với các bạn trẻ.
GS Douglas D.Osheroff.
Sau bài diễn thuyết của GS Douglas "Khoa học làm thay đổi cuộc sống của chúng ta như thế nào", một sinh viên đặt câu hỏi: ông có lời khuyên gì cho các nhà nghiên cứu khoa học trẻ ở VN? Vị GS cho hay quan trọng nhất là bạn phải có niềm đam mê và hãy đi theo niềm đam mê của mình. Ông kể, dù bản thân là một nhà khoa học từng đạt giải Nobel nhưng ở Mỹ, các công trình nghiên cứu của ông không nhận được nhiều quỹ hỗ trợ bởi đó là các công trình nghiên cứu khoa học cơ bản. Tuy vậy, ông vẫn đi theo con đường mà mình đã chọn bởi như thế, ông thấy vui và làm việc hiệu quả.
"Các bạn cũng vậy, nếu bạn yêu thích cái gì thì hãy cứ theo nó, các bạn sẽ nhận được rất nhiều niềm vui từ nó".
Cũng cần cả tính cam kết nữa, GS Douglas nói thêm, khi các bạn thực hiện một công trình khoa học thì các bạn phải đảm bảo cam kết với nhau sẽ quyết tâm đi đến cùng.
Đối với học sinh, sinh viên, theo GS Douglas, nên thành lập các câu lạc bộ nghiên cứu khoa học ở các trường học. Sau đó mời các nhà khoa học, các giảng viên đại học đến nói chuyện.
Như thế sẽ khơi dậy sự tò mò, sự quan tâm của các bạn đối với khoa học. Ở Mỹ, học sinh, sinh viên cũng làm tương tự. "Cần khuyến khích các em sinh viên lấy nghiên cứu khoa học là đích đến, niềm đam mê của mình chứ không chỉ là công cụ để kiếm tiền sau khi ra trường", GS Douglas nhấn mạnh.
"Làm thế nào để khuyến khích học sinh, sinh viên đi theo con đường nghiên cứu khoa học? một sinh viên khác đặt câu hỏi. GS Douglas kể câu chuyện của chính mình: Khi tôi sáu tuổi, bố tôi, một bác sỹ rất khuyến khích tôi làm các thí nghiệm. Giờ nghĩ lại mới thấy đó là những thí nghiệm khá nguy hiểm nhưng lại giúp tôi có niềm đam mê.
Các bậc cha mẹ nên đóng vai trò khuyến khích con cái của họ tạo dựng niềm đam mê và theo đuổi đam mê ấy. Ông cũng chia sẻ thêm, đôi khi những phát minh được tạo ra từ chính những công cụ do chính mình sáng chế chứ không phải từ những phòng thí nghiệm hiện đại.
Bản thân công trình đạt giải Nobel vật lý của ông được thực hiện bằng chính những công cụ do ông sáng chế ra khi ông còn rất trẻ và đang học thạc sỹ. Quan trọng vẫn là niềm đam mê, vị GS cho hay.
Hàng trăm sinh viên đã đến dự buổi giao lưu với chủ nhân giải Nobel Vật lý 1996. (Ảnh: VTC News)
Mời các bạn đến phòng thí nghiệm của tôi
Nhà khoa học từng đạt giải Nobel vật lý nhiều lần ngỏ ý mời các bạn học sinh, sinh viên, các nhà nghiên cứu trẻ ở VN sang thăm và thậm chí thực hành ở phòng thí nghiệm của ông.
"Tôi có một phòng thí nghiệm trị giá nửa triệu USD với khá nhiều thiết bị hiện đại".
Theo GS, việc đưa các nhà nghiên cứu khoa học trẻ ở VN đến học tập và nghiên cứu ở các quốc gia có nền khoa học công nghệ phát triển sẽ là cách nhanh nhất để VN xây dựng nền khoa học tiên tiến.
"Gửi sinh viên ra nước ngoài học tập tại các phòng thí nghiệm là một ý tưởng hay, các trường đại học ở Việt Nam cần có chương trình liên kết với các trường phương tây để sinh viên liên tục được sử dụng những phòng thí nghiệm ở nước phát triển".
Tuy nhiên, ông cũng bày tỏ băn khoăn: "Có một nguy cơ mà VN phải đối mặt là các sinh viên này có thể sẽ không quay trở về nước làm việc. Để tránh việc này, Chính phủ Việt Nam cần có những sự phối hợp với các nước nhưng đảm bảo lợi ích hai bên", GS. Douglas nhấn mạnh.
Ông cũng cho rằng, VN nên thúc đẩy các cuộc đối thoại giữa các giáo sư, nhà khoa học ở VN với các chuyên gia nước ngoài nhiều hơn nữa.
Theo Nguyễn Hòa
Tiền Phong
Điều gì đang xảy ra với hệ thống giáo dục Ấn Độ? Mặc dù số lượng các trường cao đẳng, đại học ở Ấn Độ đang tăng mạnh nhưng chất lượng lại đi xuống. Tại sao lại như vậy? Có thể nói, Ấn Độ là nước có nền giáo dục lớn thứ hai trên thế giới chỉ sau Mỹ. Trường đại học Nalanda ở Ấn Độ đã thu hút sinh viên từ khắp nơi trên...