Chọn nghề vào đời: Sự lựa chọn cân não
Người ta vẫn nói: “Đại học không phải là con đường duy nhất để vào đời”. Điều này hoàn toàn chính xác. Đường vào đời không phải là độc đạo. “Mọi con đường đều dẫn đến thành Rome”.
Để sống được và cao hơn nữa là để sống một cuộc đời hạnh phúc, thành công, chúng ta có rất nhiều cách thức và sự lựa chọn khác nhau, tùy theo điều kiện, hoàn cảnh, nhận thức và quyết tâm của mỗi người.
Điều cốt yếu nhất là chúng ta sẽ chọn học ngành gì, làm nghề gì để nghề đó có thể vừa nuôi sống được bản thân, mang lại cho chúng ta niềm vui, những cơ hội thăng tiến tốt lại vừa giúp ích cho cộng đồng và xã hội? Câu hỏi này không dễ trả lời.
Đứng trước thời điểm mang tính quyết định, các bạn trẻ cần tỉnh táo để có những lựa chọn phù hợp. Ảnh: Quang Vinh.
Có người may mắn chọn được nghề phù hợp ngay từ đầu nhưng cũng có những người phải trả giá bằng thời gian, tiền bạc, sức khỏe mới có được đáp án chính xác cho mình. Vậy, để chọn được một ngành nghề phù hợp, chúng ta cần phải làm gì?
Có ba tiêu chí quan trọng cần lưu ý khi lựa chọn nghề nghiệp:
1. Chọn nghề mình có thể làm tốt nhất.
2. Chọn nghề mình yêu thích nhất.
Video đang HOT
3. Chọn nghề xã hội đang cần nhất.
Trước ngưỡng cửa vào đời, mỗi người phải tự tìm hiểu, so sánh, cân nhắc và tự đưa ra quyết định cuối cùng cho riêng mình. Ở trình độ lớp 9 hoặc lớp 12, các em học sinh cũng đã đuợc trang bị một phông nền kiến thức và khả năng tư duy nhất định rồi.
Từ nhỏ tới lớn, chúng ta đã từng trải qua biết bao nhiêu ước mơ về nghề nghiệp tương lai. Bé trai thì hay mơ thành chú công an, bộ đội, cầu thủ, bác sĩ, luật sư… Bé gái thích trở thành cô giáo, người mẫu, ca sĩ, diễn viên… Ước mơ về nghề nghiệp trong tương lai của trẻ con nhiều khi nó ngây thơ và hồn nhiên tới mức: ngày hôm nay vì ta thích ăn bim bim, kẹo mút… mà ta mơ lớn lên trở thành người bán hàng tạp hóa để được ăn quà vặt cho thỏa thích, ngày mai vì thích đọc truyện tranh quá ta lại đổi sang mơ trở thành chủ một hiệu sách thật to! Cái sở thích, đam mê nhiều khi nó rất dễ bị thay đổi. Vậy làm thế nào để biết mình thực sự đam mê công việc gì? Lại một câu hỏi khó được đặt ra.
Khi chúng ta làm một công việc mà chúng ta cảm thấy mình bị cuốn hút, càng làm càng say mê, tìm tòi khám phá, không thấy khó, không thấy khổ; càng khó, càng khổ càng hấp dẫn, thôi thúc bản thân muốn vượt qua mọi khó khăn để chinh phục những đỉnh cao của nghề; làm việc mà như đang tận hưởng, thưởng thức công việc, làm như không làm, luôn luôn có cảm hứng sáng tạo để phát triển… thì đó đích thực là một công việc dành cho bạn. Nhưng vấn đề là chúng ta phải quyết định chọn một nghề khi chúng ta chưa hề được làm thử mà hoàn toàn chỉ tìm hiểu nó trên lý thuyết, qua hình ảnh và quan sát từ người khác mà thôi thì sự nhầm lẫn vẫn có thể xảy ra.
Thật chẳng có gì sung sướng bằng việc chúng ta được tự do chọn nghề, chọn công việc theo đúng sở thích, năng lực của mình. Đấy gọi là “người chọn nghề chủ động”, chúng ta được quyền tự lựa chọn và tự chịu trách nhiệm về sự lựa chọn ấy. Nhưng cũng có rất nhiều người phải “chọn nghề thụ động”, tức là chọn nghề theo hoàn cảnh, theo ý muốn và sự sắp đặt của người khác mà cụ thể là bố mẹ. Chỉ vì bố mẹ hoặc người thân công tác lâu năm trong nghề, có sẵn “suất thế chân” hoặc có mối quan hệ ngoại giao tốt để xin việc sau khi con ra trường nên chọn học ngành đó. Có được việc làm ngay sau khi tốt nghiệp là mơ ước của tất cả mọi học sinh – sinh viên. Có em học sinh nhà nghèo quá, không đủ tiền ăn học mấy năm trời nên quyết tâm thi vào các trường được bao cấp trong suốt quá trình ăn học lẫn đảm bảo đầu ra, được bố trí việc làm sau khi ra trường như công an, an ninh, quân đội… mặc dù em thích làm nghề khác.
Nhưng dễ dàng xin được việc không có nghĩa là công việc ấy dễ làm, không phát sinh khó khăn. Bất cứ một ngành nghề, một công việc gì cũng có lúc nọ lúc kia, lúc thăng lúc trầm, có niềm vui và khó khăn riêng của nghề ấy. Nếu không thực sự yêu nghề, đam mê công việc, chúng ta sẽ không đủ kiên nhẫn để vượt qua thử thách, cảm thấy nhàm chán, dễ nản lòng, thối chí và bỏ cuộc. Phải làm một công việc mình không thích cũng giống như việc chúng ta phải chung sống với một người mà chúng ta không có tình yêu thương. Điều đó thật nhàm chán và tẻ ngắt, thậm chí như một sự tra tấn, cực hình.
Bên cạnh những yếu tố chủ quan, chúng ta cũng cần xét các yếu tố khách quan khi chọn nghề. Chúng ta làm việc tức là chúng ta bán sức lao động. Vậy thì chúng ta phải tuân theo quy luật “cung – cầu”. Chúng ta không chỉ bán thứ chúng ta có mà cần phải bán thứ thị trường cần thì mới đắt hàng được. Nhu cầu nhân lực của xã hội không cố định, không bất biến mà có tính thời điểm, thậm chí thay đổi với tốc độ chóng mặt. Ngành này, nghề này năm nay đang hot, thí sinh đâm đơn vào ầm ầm, điểm tuyển sinh cao chót vót, người làm nghề hái ra tiền nhưng có khi chỉ một vài năm sau nó đã trở nên lỗi thời, mất vị thế. Bởi vậy, để chọn được một nghề có tuổi thọ lâu dài cũng không hề đơn giản chút nào, nếu không nói là vô cùng cân não, có khi còn hên xui.
Thị trường lao động Việt Nam luôn luôn xảy ra tình trạng “thừa thầy – thiếu thợ”. Ai cũng mong mình đỗ đại học để được làm công việc trí óc, nhàn hạ hơn, thu nhập cao hơn, có cơ hội thăng tiến tốt hơn công việc lao động chân tay thuần túy nên lĩnh vực sản xuất, thi công… luôn khan hiếm thợ có tay nghề, đặc biệt là thợ bậc cao. Nhiều cử nhân vừa ra trường đã ngay lập tức thất nghiệp. Người có điều kiện kinh tế thì tiếp tục theo học lên các bậc cao hơn để chờ cơ hội xin việc. Người bị thúc ép về kinh tế thì buộc phải vứt bằng cử nhân vào xó tủ để làm tạm công việc gì đấy kiếm sống qua ngày, cho dù trái ngành trái nghề hoặc lao động phổ thông. Thậm chí có nhiều người còn phải đăng ký học thêm nghề mới, lãng phí 4 – 5 năm trời ăn học đại học.
Để khắc phục tình trạng “thừa thầy – thiếu thợ”, hạn chế lãng phí chi phí đào tạo, để “cung” sát với “cầu” hơn thì Chính phủ đã phê duyệt đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh phổ thông giai đoạn 2018-2025″, trong đó đáng chú ý là: “Mục tiêu đến năm 2025 sẽ có ít nhất 40% học sinh tốt nghiệp THCS “rẽ ngang” sang học nghề ở trình độ sơ cấp, trung cấp; ít nhất 45% học sinh tốt nghiệp THPT sẽ tiếp tục học nghề ở trình độ cao đẳng”. Đấy là chính sách vĩ mô từ trung ương. Còn bản thân mỗi học sinh cũng cần tự đánh giá năng lực của mình và tham khảo nhu cầu của thị trường lao động mà quyết định học tiếp lên cao hay rẽ ngang đi học nghề cho phù hợp.
Không có nghề nào không cao quý, không có nghề nào tự thân nó phân biệt đẳng cấp sang – hèn, sự phân biệt chẳng qua là do con người tự đặt ra và gán cho nó thôi. Mỗi một nghề chân chính đều có giá trị và sự cần thiết riêng. Tự mình làm việc để nuôi sống mình, mang lại lợi ích cho gia đình, góp phần xây dựng xã hội phồn vinh, hạnh phúc thì đều được tôn trọng. Thầy cô, cha mẹ và các tổ chức giáo dục, các trung tâm môi giới – tuyển dụng lao động cần quan tâm, tư vấn, hướng nghiệp cho các em để các em có được sự lựa chọn đúng đắn nhất, sáng suốt nhất, sát với thực tế nhất. Để mỗi em sau khi học nghề, ra đời có thể nhanh chóng tìm được việc làm và làm việc bằng tất cả sự háo hức, say mê, nghiên cứu, cống hiến, chinh phục được nhiều đỉnh cao trong sự nghiệp. Hay chí ít ra, cũng cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc khi được làm nghề mình đã chọn, đã học. Để mỗi giây phút, mỗi giờ, mỗi ngày, được sống và làm việc là niềm vui chứ không phải là áp lực hay gánh nặng trách nhiệm.
Bất cứ sự lựa chọn sai lầm nào cũng phải trả giá. Có những sai lầm phải trả giá bằng cả một cuộc đời, không thể làm lại được. Sai lầm khi chọn nghề sẽ phải trả giá bằng tiền bạc, thời gian, công sức và cơ hội thành đạt. Tôi mong các bạn trẻ khi đứng trước những thời điểm mang tính quyết định, hãy bình tĩnh, tỉnh táo, khôn ngoan để phân tích, lựa chọn và có được quyết định lựa chọn nghề nghiệp phù hợp nhất cho bản thân mình. Khi thấy không phù hợp thì dám bước ra khỏi “vùng an toàn” để thay đổi và làm lại.
Phố Hoa
Theo daidoanket
Giáo dục hướng nghiệp: Chú trọng lồng ghép và liên thông
Trước ngưỡng cửa lập nghiệp, vào đời, hiện nay nhiều bạn trẻ đang có xu hướng chọn "đầu ra" trước khi lựa chọn ngành học. Nói cách khác, xu hướng chọn ngành nghề giờ đây đã không còn theo tâm lý đám đông, mà người học đã quan tâm hơn đến tương lai của chính mình.
Định hướng nghề nghiệp bảo đảm học sinh có đủ kiến thức tham gia thị trường lao động sau bậc THCS. Ảnh: Mạnh Dũng.
Tốt nghiệp ĐH vẫn... thất nghiệp
Trước đó, bản tin cập nhật thị trường lao động quý 4/2018 của Bộ LĐTB&XH cho thấy: Số người có việc làm đạt 54,53 triệu người, tăng 22,94 nghìn người (0,42%) so với quý 3/2018 và tăng 478,4 nghìn người (0,89%) so với cùng kỳ năm 2017. Tuy nhiên, trong quý 4/2018, cả nước vẫn còn 1.062 nghìn người trong độ tuổi lao động thất nghiệp (giảm 7,6 nghìn người so với quý 3/2018 và giảm 8,81 nghìn người so với quý 4/2017). Trong đó, tỉ lệ thất nghiệp cao nhất vẫn ở nhóm có trình độ CĐ (4,1%), nhóm có trình độ trung cấp (2,61%), nhóm trình độ ĐH trở lên (2,57%) và nhóm sơ cấp nghề (1,51%). Đồng thời, cả nước vẫn còn 543,2 nghìn người lao động trong độ tuổi thiếu việc làm, trong đó có 87,07% lao động nông thôn và 70,98% lao động làm việc trong ngành nông lâm thủy sản. Số người thất nghiệp dài hạn, trên 12 tháng có xu hướng gia tăng, chiếm 34,42% tổng số người thất nghiệp.
Như vậy, hiện có khoảng 135,8 nghìn lao động trình độ ĐH thất nghiệp, chiếm tỉ lệ đáng kể trong hơn 1 triệu lao động đang thất nghiệp của cả nước. Đáng chú ý, con số này đã giảm gần 16 nghìn người so với giai đoạn trước. Cùng với thực trạng các doanh nghiệp hầu như phải đào tạo lại sinh viên sau ra trường, điều này đã chỉ ra cho thấy, những lỗ hổng trong đào tạo nhân lực trình độ ĐH hiện nay: Sinh viên ra trường không thể tìm được công việc phù hợp, lại vừa tốn kém thời gian, tiền bạc của xã hội.
Mùa tuyển sinh 2019 - 2020, theo thống kê của Bộ GDĐT, cả nước có hơn 886.000 thí sinh đăng ký dự thi THPT quốc gia 2019, trong đó có hơn 650.000 thí sinh xét tuyển ĐH, chiếm khoảng 69%. Trong khi đó, các năm 2017 và 2018, tỉ lệ thí sinh đăng ký dự thi để lấy kết quả xét tuyển vào ĐH, CĐ luôn giữ ở mức ổn định khoảng gần 75%.
Theo các chuyên gia giáo dục, thực trạng này xuất phát từ 2 nguyên nhân chính: Giờ đây không ít trường ĐH dễ dãi trong tuyển sinh bằng xét tuyển học bạ hoặc đánh giá năng lực. Thứ hai là sự hấp dẫn ngày càng lớn của các cơ sở đào tạo nghề khi học viên được vừa học vừa thực hành ngay tại doanh nghiệp cùng cam kết có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp. Hơn thế, giờ đây việc học sinh tốt nghiệp THCS được đăng ký học thẳng lên CĐ nghề đã mở ra cơ hội học nghề, lập nghiệp sớm cho người học.
Lực lượng lao động chưa qua đào tạo còn cao
Bộ GDĐT mới đây cho biết, sau thời gian định hướng nghề nghiệp, phân luồng học sinh phổ thông thì đến nay số học sinh tốt nghiệp THCS không tiếp tục học lên THPT hiện chiếm trên 30%. Theo Bộ trưởng Bộ GDĐT Phùng Xuân Nhạ, Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 522/QĐ-TTg ngày 14/5/2018 phê duyệt Đề án giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong GDPT giai đoạn 2018 - 2025. Đồng thời, ban hành kế hoạch và đang triển khai thực hiện 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp của Đề án nhằm tạo bước đột phá về chất lượng giáo dục hướng nghiệp, góp phần chuyển biến mạnh mẽ công tác phân luồng học sinh sau THCS và THPT. Đặc biệt, Bộ đã chỉ đạo các địa phương, các cơ sở giáo dục ĐH tổ chức tư vấn, hướng nghiệp cho các em học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 12 để các em có những hiểu biết về ngành, nghề sẽ lựa chọn.
Tuy nhiên theo ông Nhạ, hiện nay tỉ lệ học sinh sau THCS đi học nghề còn ít, số học sinh tham gia ngay vào thị trường lao động chưa qua đào tạo còn cao. Công tác tuyên truyền về hướng nghiệp, phân luồng còn hạn chế.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng giáo dục hướng nghiệp và phân luồng học sinh phổ thông chưa hiệu quả? Ông Vũ Đình Chuẩn-Vụ trưởng Vụ Giáo dục Trung học (Bộ GDĐT) chia sẻ: Tỉ lệ học sinh sau THCS đi học nghề còn thấp do nhiều nguyên nhân. Trước hết do nhận thức của học sinh, gia đình học sinh và xã hội đối với giáo dục nghề nghiệp còn hạn chế. Việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh còn cảm tính hoặc theo sự áp đặt của gia đình, hệ thống thông tin thị trường lao động chưa được cập nhật. Nội dung, phương thức hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong các nhà trường còn chậm được đổi mới. Hệ thống giáo dục nghề nghiệp đã từng bước đổi mới nhưng chưa tạo ra sức hút mạnh đối với học sinh, nhất là học sinh tốt nghiệp THCS. Bên cạnh đó, vẫn còn thiếu những cơ chế chính sách đủ mạnh để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục hướng nghiệp và khuyến khích học sinh tham gia học nghề.
Khắc phục những tồn tại này, Bộ GDĐT cho hay, trong chương trình GDPT mới tới đây, trên cơ sở phân tích thực trạng và nguyên nhân thành công, hạn chế của giáo dục hướng nghiệp và phân luồng trong các chương trình đã có, nội dung giáo dục hướng nghiệp được xác định theo 2 hướng: Thứ nhất, chương trình bảo đảm kết nối chặt chẽ giữa các lớp học, cấp học với nhau và liên thông với chương trình giáo dục mầm non, chương trình giáo dục nghề nghiệp và chương trình giáo dục ĐH. Thứ hai, nội dung giáo dục hướng nghiệp đặc biệt được chú trọng, lồng ghép trong từng môn học và hoạt động giáo dục thông qua việc lựa chọn nội dung giáo dục gắn với thực tiễn.
Tất cả nhằm mục đích định hướng nghề nghiệp bảo đảm học sinh tiếp cận nghề nghiệp, chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Như vậy, học sinh tốt nghiệp THCS không học lên THPT mà đi học nghề hoàn toàn có đủ kiến thức, kĩ năng tham gia vào thị trường lao động.
Mạnh Dũng
Theo daidoanket
Gỡ rối hướng nghiệp, chọn lối vào đời Chọn nghề nào và học trường nào? Đó là băn khoăn của đại đa số học sinh lớp 12 trước thềm Kỳ thi THPT quốc gia. Theo các chuyên gia tư vấn hướng nghiệp, đại học rất cần thiết nhưng không phải là con đường duy nhất. Quan trọng là biết cách "chọn lối" vào đời để có thể thành công trong sự...